Bạch Hoa Xà
Tên khác: Đuôi công hoa trắng, nhài công, lài dưa, bươm bướm, cây mộng mắt, cây lá đinh, bạch tuyết hoa, pít pì khao (Tày), co nhả cam (Thái).
Tên nước ngoài: Ceylon leadwort, white leadwort, swart waterbossic, white - flowered leadwort (Anh) ; dentelaire de Ceylan (Pháp).
Họ: Đuôi công (Plumbaginaceae).
Mô tả:
Cây thảo, cao 50 - 70 cm. Thân hóa gỗ ít hay nhiều, khúc khuỷu, có khía dọc rất mảnh và có đốt rõ. Lá mọc so le, hình trứng hay bầu dục thuôn, gốc gần bằng, đầu nhọn, mép lượn sống, mặt trên màu lục sẫm bống, mặt dưới trắng nhạt; cuống lá như ôm vào thân.
Cụm hoa mọc thành chùm bổng ỏ ngọn gồm nhiều hoa màu trắng, lá bắc thuôn nhọn, ngắn hơn đài hoa; đài hình trụ có cạnh rõ phủ đầy lông tuyến dính; phía trên xẻ 5 thùy rất nhỏ; tràng hoa hình đinh; ống rất hẹp, dài gấp đôi đài, 5 cánh hình trứng ngược, đầu có mũi nhọn; nhị 5, chỉ nhị hình chỉ, bao phấn thuôn màu vàng, bầu có vòi nhụy dài và rất mảnh, đầu nhụy xẻ 5 nhánh.
Quả thường lép.
Mùa hoa quả gần như quanh năm, nhưng chủ yếu vào tháng 5 - 6.
Còn có loài xích hoa xà hay đuôi công hoa dò, bươm bướm đỏ - Plumbago indica L. (P. rosea L.) có hoa màu đỏ, cũng được dùng với công dụng tương tự.
Bộ phận dùng:
Rễ và lá, thu hái quanh năm.
Rễ đào về, rửa sạch, cắt thành từng đoạn ngắn rồi phơi khô để dùng dần.
Lá thường được dùng tươi.
Thành phần hóa học:
Toàn cây bạch hoa xà có flavonoid, hợp chất phenol, triterpen, acid hữu cơ.
Rễ chứa plumbagin 0,91 %, chất này có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn gram + (Staphylococus, streptococcus và Pneumococcus), I kháng nấm, gây xung huyết làm bỏng da.
Toàn cây còn chứa 3 - cloropluinbagin, 3,3' - biplumbagin, chitranon, zeylenon, matrinon. 2 - methyl naphthazarin, plumbazeylanon, methylen - 3,3' - diplumbagin, các acid plumbagic và vanilic.
Gupta Madan M và cộng sự [CA; 124: 50. 614c (1996)] đã chứng minh bạch hoa xà chứa nonyl - nonanoat, nonyl - 8 - methyl - dodec - 7 - enoat, benzil - 2,5 - dihydroxy - 6 -methoxy benzoat, 2,2 - dimethyl - 5 - hydroxy - 6 - acetyl cromen, stigmasterol acetat, lupeol acetat, friedelinol, lupeol, lupanol, sitosterol và stigmasterol.
Hoàng Như Mai (1977) đã xác định trong rễ, thân, lá đều có plumbagin, trong rễ nhiều hơn.
Theo Đỗ Đình Rạng và cs (1996), bạch hoa xà chiết bằng n.hexan có những thành phần sau
-
Ở rễ: 31 thành phần trong đó plumbagin 19,33% acid palmitic 18,99 %, n - C21 6,44 % acid linoleic 23,39 %.
-
Ở lá: 13 thành phần trong đó plumbagin 37,47%, acid palmitic 5,82 % n - C21 7,99 % - Ở hoa: 13 thành phần, trong đó plumbagin 81,85%.
Tác dụng dược lý:
Bạch hoa xà (dịch chiết hoặc hoạt chất plumbagin) có những tác dụng dược lý sau:
-
Tác dụng kháng khuẩn đối với các chủng: Staphylococcus aureus, Bacillus anthracis, Proteus mirabilis, Shigella flexneri, Enterobacter cloaceae, Salmonella typhi, S.paratyphi, Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella aerogenes, K.pneumoniae, Escherichia coli, Neisseria gonorrhoea, Bacillus cereus, B.pumilis, Staphylococcus citreus, Salmonella dublin, Mycobacterium phlei.
-
Tác dụng chống viêm, - Trong nhiễm độc diclor diethyl sulfid liều thấp trên thực nghiệm, có khả năng làm giảm đáng kể các rối loạn vi tuần hoàn; các tổn thương ở gan thận do nhiễm độc giảm đi sau 30 ngày điều trị với chiết phẩm bạch hoa xà.
-
Tác dụng gây sung huyết da, làm phỏng rộp da, được áp dụng tại chỗ để thúc đẻ, tác dụng lợi tiểu và ra mồ hôi.
-
Tác dụng chống sinh sản, chống sự làm tổ của trứng đã thụ tinh và gây sẩy thai ở chuột cống trắng, và ức chế sự rụng trứng ở thỏ, gây những thương tổn một cách chọn lọc của tinh hoàn ở chó.
-
Tác dụng chống đông máu ở chuột cống trắng.
-
Tác dụng trị hột cơm, mụn cóc.
-
Tác dụng trị lang ben lúc bắt đầu bị bệnh, và trị hói đầu.
-
Tác dụng chống u, chống sarcom sợi gây bằng methyl cholanthren ở chuột cống trắng và chống bệnh bạch cầu lympho P388 thực nghiệm.
-
Hoạt tính chống nấm đối với Entomophthora floccosum, Metarrhizium nana, Penicillium canadense, P.notatum, Rhinotrichum nigricans.
-
Tác dụng chống peroxy hóa lipid in vitro và in vivo trên chuột nhắt trắng.
-
Tác dụng diệt nhiều loài sinh vật độc hại: Acalymma vittata, Achaea janata, Mythimma separata, Corcyra cephalonica, Dysdercus koenigii, Heliothis virescens, Heliothis zea, Dysdercus cingulatus, Pectinophora gossypiella. Spilosoma obliqua, Trichoplusia ni.
Tính vị, công năng:
Bạch hoa xà có vị cay, tính nóng có độc, có tác dụng thông kinh, hoạt huyết, sát trùng, tiêu viêm, khu phong, trừ thấp, tan máu ứ.
Công dụng:
Lá sao vàng sắc uống trừ hàn lãnh, huyết ứ của sản phụ. Theo Lĩnh nam bản thảo của Hải Thượng Lãn Ông, bạch hoa xà có công dụng giải thuốc độc, chữa trúng phong bại liệt méo mồm, phong hủi, lở ngứa, mụn nhọt.
Dùng ngoài, chữa đinh nhọt, tràng nhạc, sưng vú (dùng lá, rễ tươi giã nát đắp).
Chữa hắc lào, ghẻ lở (rễ tươi rửa sạch giã nhỏ, phơi trong râm, ngâm rượu 70° bôi).
Chữa chai chân đau không đi được (rễ tươi rửa sạch giã đắp, sau 2 giờ bỏ ra).
Nhân dân thường dùng rễ hay lá tươi giã nhỏ với cơm thành một thứ bột nhão, đắp lên những chỗ sưng đau. Có nơi người ta sắc rễ lấy nước bôi ghẻ, dùng lá bạch hoa xà giã nát đắp lên đầu chốc lở đã rửa sạch đến khi thấy nóng thì bỏ ra.
Trong y học dân gian Ấn Độ, rễ bạch hoa xà được dùng dể làm chất kích thích da, để điều trị chứng khó tiêu, trĩ, phù toàn thân, tiêu chảy và bệnh da. Bột nhão bào chế từ rẽ được áp dụng để mở các áp xe, chữa bệnh phong và một số bệnh da có tính dai dẳng khổ trị, bệnh nấm da và chàm. Ở một vùng nông thôn ở Bắc Ấn Độ, nhân dân dùng nước sắc lá và cành non để gây co hồi tử cung sau khi đẻ, uống trong 10 ngày liên tục; và uống nước sắc lá hoặc rễ để gây sẩy thai, nhưng phải thận trọng, vì do tính chất độc của plumbagin, nó có thể gây buồn nôn, nôn, đau bỏng ở họng, hoặc có thể gây chết người khi dùng liều cao.
Theo kinh nghiêm dân gian Trung Quốc, rễ khô bạch hoa xà sắc uống chữa phong thấp đau xương, sưng khớp, gan lách sưng to, tâm vị đau tức. Giã lá hoặc rễ tươi đắp vết thương sưng đau, rắn cắn.
Ở châu Phi, rễ bạch hoa xà trị bệnh cúm, sốt tiểu đen, sốt chu kỳ và bệnh lây lan qua đường sinh dục:
Kiêng kỵ: Cấm uống bạch hoa xà đối với người mang thai.
Đồng bào miền núi dùng rễ gọt vỏ, đặt vào cổ tử cung để gây sẩy thai, đã xảy ra tai biến nguy hại đến tính mạng. Cần phải ngăn cấm việc này.
Bài thuốc có bạch hoa xà:
1 .Chữa thấp khớp:
a) Thân cây bạch hoa xà bỏ lá, phơi khô, sao vàng 10 - 12g, ngâm rượu uống, Mỗi ngày uống liều như trên.
b) Rễ bạch hoa xà giã nhỏ ngâm rượu xoa bóp.
- Thuốc đắp chữa nhọt mủ:
Lá bạch hoa xà; giã đắp qua nhiều lớp vải gạc lót trên vùng đắp thuốc để tránh tác dụng gây phỏng rộp
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam