Bàng (Terminalia catappa L.)

Tên khác: Quang lang.
Tên nước ngoài: Indian almond - tree, tropical almond (Anh); badamier (Pháp).
Họ: Bàng (Combretaceae).

Mô tả:

Cây to, cao 8 - 10 m, có khi hơn. Thân phân cành nằm ngang gần như mọc vòng làm thành nhiều tầng. Lá to, mọc so le, cuống ngắn, hình trứng ngược, gốc thuôn, đầu tròn hơi có mũi nhọn, dài 20 - 30 cm, rộng 10-13 cm, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới nhạt, hơi có lông màu hung nhạt, gân phụ chằng chịt men theo phiến đến tận đầu lá; cuống lá có lông màu hung.

Cụm hoa mọc thành chùm ở kẽ lá gần ngọn, dài 15 - 20 cm; hoa nhỏ nhiều, màu trắng lục; đài có 5 răng rụng sớm, gốc có 5 tuyến màu nâu; không có tràng; nhị 10, cao hơn đài; bầu hạ một ô, chứa hai noãn đảo.

Quả hạch, hình trứng dẹp, đầu múp nhọn, hai mép mỏng, khi chín màu vàng.

Mùa hoa: tháng 4 - 5; mùa quả: tháng 6-7.

Bộ phận dùng:

Vỏ, lá và hạt.

Thành phần hóa học:

Vỏ thân cây bàng chứa 25 - 35 % tanin pyrogalic và tanin catechic.

Lá chứa corilagin, acid galic, acid elagic, brevifolin carboxylic acid. vỏ và gỗ chứa acid elagic, acid galic, (+) - catechin, (-) - epicatechin và (+) - leucocyanidin, nhân chứa 52,02% chất béo, 25,42% protein, 5,98% đường. Chiết bằng dung môi, nhân bàng cho 52% dầu béo (nếu đem ép thì chỉ được 38%). Dầu béo có những tính chất như sau: d 0,9095, nd28 1,4649, chỉ số acid 2,07, chỉ số xà phòng 188, chỉ số iod 76,16. Thành phần dầu gồm acid myristic 1,62%, acid palmitic 55,49 %, acid stearic 6,34%, acid oleic 23,26%, acid linoleic 7,55%. Bã còn lại chứa albumin 8%, globulin 15%, prolamin không đáng kể và glutelin 7,5%. (The Wealth of India X, 1976).

Tại Somalia, theo Sosulski F.w và cs, 1988, mỗi hecta trồng bàng cho 10 tấn quả (thu hoạch 2 vụ).

Tác dụng dược lý:

Cao vỏ thân bàng (bỏ lóp đen ở ngoài) có tác dụng lợi tiểu, cường tim, làm săn. Cao methanol có tác dụng giảm co bóp ruột thỏ cô lập.

Tính vị, công năng:

Lá bàng tính mát, vỏ cây và vỏ quả có tác dụng làm săn da và niêm mạc, hạt có vị ngon, béo.

Công dụng:

Trong y học, bóp và lá bàng non chữa cảm sốt, làm ra mồ hôi, chữa tê thấp, đau nhức, ghẻ, sâu quảng, sâu răng. Ngày 20 - 30g sắc uống, vỏ thân (bỏ lớp đen ở ngoài) chữa kiết lỵ, tiêu chảy, vết thương, vết loét. Ngày 12 - 15g, sắc uống. Dùng ngoài, vỏ thân hoặc búp bàng khổng kể liều lượng, sắc đặc rửa vết thương, vết loét. Nhân hạt bàng 20g sao vàng, sắc uống, chữa di ngoài ra máu.

Trong công nghiệp, vỏ quả và vỏ thân bàng dể thuộc da. Lá bàng để nhuộm màu cứt ngựa hoặc màu đen. Hạt bàng để ép dầu dùng thay dầu thảo mộc khác để chạy máy tinh vi.

Theo bằng sáng chế của Prazeres Emir Santana (CA 122, 1995 248344), vỏ bàng được dùng dưới dạng cao hay cồn thuốc để trị hen phế quản đặc biệt cho trẻ em.

Bài thuốc có bàng:

  1. Chữa cảm sốt, làm ra mồ hôi:

Búp hoặc lá bàng non, lá hương nhu, cúc tần, mỗi vị 10 g sắc uống.

  1. Chữa ghẻ và sâu quảng:

Búp bàng non, phơi khô, tán thành bột mịn, rắc.

  1. Chữa đau nhức, tê thấp:

Búp bàng non dùng tươi, xào nóng chườm vào chỗ đau.

  1. Chữa sâu răng, viêm quanh răng:

Búp non hoặc vỏ thân bàng sắc đặc. vỏ thân có thể ngâm rượu, ngậm, ngày 3 lần.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post