Diệp Hạ Châu Đắng (Phyllanthus amarus Schum. et Thonn.)
Tên khác: Chó đẻ thân xanh
Họ: Thầu dầu
Mô tả:
Cây thảo, cao 10 - 40 cm, ít phân cành, màu lục. Lá mọc so le, xếp hai dãy đều trên cành trông như một lá kép lông chim, gốc tròn, đầu tù hơi nhọn, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới mông mốc.
Hoa đơn tính, mọc ở kẽ lá, không có cánh hoa, màu lục nhạt, hoa đực có cuống ngắn, xếp ở dưới hoa cái, hoa cái có cuống dài.
Quả nang, hình cầu, nhẵn, hơi dẹt, chia thành 3 mảnh vỏ, mỗi mảnh có 2 van chứa 2 hạt; hạt hình tam giác, đường kính 1mm, có cạnh dọc và vằn ngang.
Mùa hoa: tháng 4 - 6, mùa quả: tháng 7 - 9
Bộ phận dùng:
Toàn cây, thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Thành phần hoá học:
Lá diệp hạ châu đắng chứa chất đắng không có quinin hoặc alcaloid. Lá khô chứa các chất đắng hypophylathin (0,05%) phylanthin (0,35%), các chất này gây độc đối với cá và ếch. Trong cây có niranthin, nirtetralin và phylteralin.
Gần đây, người ta còn phát hiện trong cây có lignan, flavonoid, alcaloid kiểu securinin như niruroidin, isobubialin, epibubialin một loại elagitnin, cùng với 1 - O - galoyl - 2,4 - dehydrohescahydroxydyphenoyl - glucopyranose elaeocarpusin, quercetin, quercitrin, isoquercitrin astragalin, rutin, các acid hữu cơ như ascorbic geraniinic 13 acid amariinic và repandusinic A.
Các tác giả Trung Quốc còn phân lập được 1,6 digalloyl glucopyranosid, corilagin và geraniin, chất khoáng và một số kim loại nặng.
Tác dụng dược lý:
Cao diệp hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ gan như chuột cống trắng được gây nhiễm độc gan bằng carbon tetraclorid. Trong mô hình gây xơ gan thực nghiệm trên chuột cống trắng, thuốc có tác dụng làm giảm hàm lượng colagen trong máu và làm giảm mức độ xơ gan ở động vật điều trị so với đối chứng. Thuốc có tác dụng lợi tiểu, chống oxy hoá và tỏ ra có độ an toàn cao trong thử nghiệm về độc tính. Các lignan và phyllanthin và hypophyllanthin trong diệp hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ tế bào gan chuột cống trắng chống lại tác dụng độc hại tế bào gây bởi carbon tetraclorid và galactosamin. Phyllanthin có hoạt tính chống độc hại di truyền nhưng cũng có tác dụng độc với hệ thần kinh và gan. Các tanin có thể thuỷ phân có hoạt tính ức chế các protein kinase được điều chỉnh bởi tín hiệu.
Diệp hạ châu đắng ức chế DNA polymerase ở virus viêm gan B và virus viêm gan khác như virus viêm gan ở con mác - mốt, có hoạt tính in vitro và in vivo kháng virus viêm gan B và các virus có liên quan, có hoạt tính in vitro đối kháng với enzym transcriptase ngược của retrovirus, và có thể có hoạt tính in vivo kháng lại retrovirus. Trong một nghiên cứu lâm sàng sơ bộ, những người mang virus viêm gan B được điều trị với liều hàng ngày là 200mg cao toàn cây diệp hạ châu đắng (loại bỏ rễ) trong 30 ngày. Kết quả 22/37 (59%) bệnh nhân được điều trị đã mất kháng viêm bề mặt của viêm gan B khi làm xét nghiệm ở 15 - 20 ngày sau khi kết thúc điều trị, so với tỷ lệ 1/23 (4%) bệnh nhân đối chứng dùng placebo có hiện tượng này. Một số đối tượng được theo dõi tới 9 tháng, không có trường hợp nào kháng nguyên bề mặt xuất hiện trở lại. Không thấy có hoặc chỉ có ít tác dụng độc. Tuy vậy, hiệu quả của diệp hạ châu đắng trong điều trị những người mang virus viêm gan B không thật rõ ràng, có cả những trường hợp thành công và thất bại được báo cáo.
Cao nước diệp hạ châu đắng có tác dụng hạ đường máu ở thỏ bình thường và thỏ gây đái tháo đường với alloxan. Cao làm hạ đường máu ngay cả khi cho thỏ uống một giờ sau khi cho uống glucose, và hoạt tính hạ đường máu của diệp hạ châu đắng cao hơn tolbutmid, Hai flavonoid, ký hiệu FG1 và FG2 thu được từ phân đoạn tan trong nước của cao cồn có tác dụng làm hạ đường máu khi cho chuột cống trắng gây đái tháo đường bằng alloxan uống. Toàn cây diệp hạ châu đắng có tác dụng gây hạ đường máu, hạ áp và lợi tiểu ở người. Cây cũng có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm. Toàn cây làm giảm hoạt động của đường tiểu hoá, làm chậm sự tống thức ăn ra khỏi dạ dày chuột cống trắng, và gây giãn đáy dạ dày và hồi tràng. Cao cồn làm giảm khả năng sinh sản của chuột cống đực.
Ba hoạt chất từ diệp hạ châu đắng có tác dụng ức chế aldose reductase là acid elargic, brevifolin carboxylat và ethyl brevifolin carboxylat; acid elargic có tác dụng mạnh nhất, ức chế mạnh hơn sáu lần so với quercitin là chất thiên nhiên ức chế aldose reductase đã biết. Cao nước lá có tác dụng đối kháng với hoạt tính làm gẫy gây bởi clorid kền ở tế bào tuỷ xương chuột nhắt trắng, làm giảm tỷ lệ % tế bào bị tổn thương cũng tần suất gẫy ở mỗi tế bào do tác dụng của ba liều muối kền (10, 20 và 40mg/kg thể trọng). Những dữ liệu cho thấy tầm quan trọng của chế độ ăn có bổ sung thực vật để làm giảm nhẹ tính độc hại tế bào của kim loại.
Tính vị, công năng:
Diệp hạ châu đắng có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, lợi tiểu, thống sữa.
Công dụng:
Diệp hạ châu đắng được dùng làm thuốc trị viêm gan, vàng da, sốt, đau mắt, rắn cắn. Ngày dùng 20 - 40g cây tươi, giã lấy nước uống, hoặc sao khô sắc uống hoặc 8 - 16g cây khô cũng sắc uống. Dùng ngoài, cả cây giã đắp hoặc giã lấy nước cốt bôi trị mụn nhọt, lở ngứa.
Diệp hạ châu đắng được dùng trong y học cổ truyền Thái Lan trị vàng da.
Trong y học cổ truyền Ấn Độ, diệp hạ châu đắng là thuốc làm săn, khi thông, sát khuẩn, lợi tiểu, và được dùng trị vàng da, khó tiêu, lỵ, phù, các bệnh của hệ niệu - sinh dục, bệnh lậu và đái tháo đường. Nước sắc chồi non trị lỵ, rễ tươi trị vàng da, lá là thuốc lợi tiêu hoá, dịch ép lá dùng đắp trị lở loét. Người ta còn dùng lá và rễ khô tán nhỏ làm thành bột nhão đắp các vết sưng tấy và loét.
Ở Peru, nhân dân uống nước sắc phần trên mặt đất làm thuốc lợi tiểu, trị sỏi mật và sỏi thận.
Ở một số nước Nam Mỹ, diệp hạ châu đắng được dùng trị sốt rét, sỏi thận, sỏi bàng quang, các rối loạn về tiết niệu nói chung và còn có tác dụng gây sẩy thai.
Ở Haiti, nhân dân uống nước sắc lá diệp hạ châu đắng và tắm với nước ngâm lá để trị sốt.
Từ đảo Hải Nam đến Indodonesia, nhân dân uống nước sắc hoặc nước hãm diệp hạ châu đắng làm thuốc lợi tiểu trị bệnh thận và gan, bệnh hoa liễu, đau bụng, làm thuốc long đờm trị ho trẻ em, hạ sốt, điều kinh và trị tiêu chảy. Nước sắc toàn cây là thuốc bổ dạ dày. Lá giã nát đắp trị đụng giập và bệnh ngoài da.
Ở Papua Niu Ghinê, nước hãm toàn cây để nguội trị đau đầu hoặc nhức nửa đầu. Các thầy thuốc cổ truyền ở Tanzania dùng cao nước phần trên mặt đất của diệp hạ châu đắng trị bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insulin.
Ở Nigiêria, cao nước cây khô trị tiêu chảy, lá nhai nuốt nước trị ho kéo dài, và sắc uống làm đơ đau dạ dày.
Ở Tây Ấn Độ, diệp hạ châu đắng được đùng trị giun ở trẻ em, và ở Rarotonga, trị đau tai.
Ở Bờ Biển Ngà nhân dân uống nước sắc lá để làm dễ đẻ trong trường hợp khó đẻ, trị vàng da, nôn, đau họng, đau gian sườn, đau mình mẩy kèm theo sốt và phù, đánh trống ngực, bệnh lậu, bệnh về da.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam