Nhàu (Morinda citrifolia L.)
Tên khác: Cây ngao, nhàu rừng, nhàu núi.
Tên nước ngoài: Indian mulberry, east indian mulberry, awl tree (Anh); morinde (Pháp).
Họ: Cà phê (Rubiaceae).
Mô tả:
Cây nhỡ hay cây to, cao 6 - 8m. Thân cành nhẵn, cành non mập, có 4 cạnh rõ, hơi dẹt, có rãnh, màu lục hoặc nâu nhạt. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 12 - 30cm, rộng 6 - 15cm, gốc thuôn hoặc hình nêm, đầu nhọn hoặc tù, mép uốn lượn, mặt trên xanh lục bóng, mặt dưới nhạt, cuống lá dài 0,5 - 1,2cm; lá kèm to 0,8 - 1,3cm, mép nguyên hoặc xẻ thuỳ.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đối diện với lá thành đầu tròn hoặc dài 2 - 4cm; hoa màu trắng sau vàng nhạt, kết thành khối và dính nhau bởi đài; tràng có ống dài 0,7 - l,2cm, có lông ở họng, 5 cánh hình mác; nhị 5, chỉ nhị ngắn, có lông; bầu 2 ô.
Quả thịt gồm nhiều quả hạch dính vào nhau, hình trứng hoặc hình cầu, cao 3 - 4,5cm, khi chín màu trắng vàng hoặc hồng nhạt, mặt ngoài lồi lõm, chứa một lớp cơm mềm, ăn được; hạt nhiều.
Mùa hoa: tháng 11-2; mùa quả : tháng 3 - 5.
Bộ phận dùng:
Vỏ, rễ, lá, quả phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học:
Vỏ rễ nhàu chứa morindon (trihydroxy - methylanthraquinon), chủ yếu dưới dạng glucosid là morindin. Sau khi thủy phân, morindin cho glucose, rhamnose và morindon. Ngoài ra, rễ còn chứa acid rubicloric, alizarin a - methyl ether, rubiadin - 1 - methyl ether, 2 đồng phân dihydroxymethyl anthraquinon (morindadiol và soranjidiol) và 2 trihydroxymethyl anthraquinon monomethyl ether (The Wealth of India VI, 1962) và selen (Đàm Trung Bảo, 1982).
Một số hợp chất khác có trong rễ là 2 - methyl - 7 - hydroxy - 8 - methoxy anthraquinon (Rusia Kalpna và cs 1989), 2 - methyl - 3, 5 - dimethoxy - 6 - hydroxyanthraquinon (morenon - 1), 1- 8 - dihydroxy - 7 - methoxy - anthraquinon (morenon - 2) (Jain Ravindra K. và cs, 1992), 1- methoxy - 2 - formyl - 3 - hydroxyanthraquinon (Koyano Takashi và cs, 1992), damnacanthal (9 - 10 - dihydro - 3 - hydroxy - 1 - methoxy - 9, 10 - dioxy - 2 - anthracen - carboxaldehyd (Ohsawa Yuji và cs, 1993).
Hoa chứa một anthraquinon glycosid, 2 flavon glycosid; 5,7 - acacetin - 7 - 0 - β - D (+) - glucopyranosid và 5,7 - dimethylapigenin - 4' - 0 - β - D (+) - galactopyranosid (Singh Jagdamba và cs, 1976).
Quả chứa ít tinh dầu, trong đó có acid hexoic, acid octoic, một ít parafin và các ester của các alcol ethylic và methylic (The Wealth of India VI, 1962).
Lõi gỗ có một chất anthraquinon glycosid là physcion - 8 - 0 -[(a - L - arabinopyranosyl (1 -> 3)] (P - D - galactopyranosyl (1 -» 6) - P - D - galactopyranosid. Ngoài ra, còn có physcion và morindon (Srivastava Mala và cs, 1993).
Tác dụng dược lý:
- Tác dụng hạ huyết áp: Trên thỏ và mèo thí nghiệm, nước sắc rễ nhàu 2:1 bằng đường tiêm tĩnh mạch với liều 1ml/kg thể trọng gây hạ huyết áp 15 - 16% so với huyết áp ban đầu; tác dụng này kéo dài trong vòng 15 - 20phút. Bằng đường uống, dạng cao cồn 2:1 với liều 4ml/kg có tác dụng hạ huyết áp đạt tới 45% và kéo dài trong 240 phút.
Thuốc có tác dụng gây giãn mạch, đối kháng với tác dụng gây tăng huyết áp của adrenalin, noradrenalin và làm mất tác dụng của nicotin. Trên điện tâm đồ mèo, thuốc không gây ảnh hưởng rõ rệt đối với tần số co bóp của tim. Thuốc không ảnh hưởng đáng kể đến chức năng bài niệu và điện giải đồ.
-
Đối với hệ thần kinh trung ương, rễ nhàu có tác dụng ức chế nhẹ.
-
Độc tính: Rễ nhàu có phạm vi sử dụng an toàn khá rộng. Về độc tính cấp, thí nghiệm tiến hành trên chuột nhắt trắng bằng đường uống với liều 80g/kg thể trọng, chuột dùng thuốc không có biểu hiện ngộ độc cấp và sống bình thường. Về độc tính bán mãn, thí nghiệm trên thỏ với liều hàng ngày 8g/kg dùng liên tục trong 15 ngày không ảnh hưởng đến số lượng hồng cầu, bạch cầu và chức năng gan thận (Công trình nghiên cứu khoa học y dược 1981 - Bộ Y tế - trang 193).
Theo các tài liệu nước ngoài, rễ nhàu có tác dụng nhuận tràng, hạ sốt, tẩy giun sán.
Tính vị, công năng:
Rễ nhàu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.
Công dụng:
- Rễ nhàu được nhân dân miền Nam dùng chữa cao huyết áp. Rễ thái nhỏ, phơi khô sắc nước uống thay chè với liều 10 -20g mỗi ngày. Sau khi dùng thuốc 14 -15 ngày, bắt đầu thấy kết quả; sau đó giảm liều dùng liên tục trong vài tháng thì huyết áp ổn định
Ngoài ra, rễ nhàu thái nhỏ, sao vàng ngâm rượu, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần một thìa canh chữa chứng nhức mỏi, đau lưng, tê bại. Có thể dùng quả nhàu non thái mỏng, sao khô, để thay thế. Rễ nhàu phối hợp với muồng trâu, rễ gừa, cù đèn, thài lài, cỏ bấc, vòi voi, ngũ gia bì chân chim, quao nước với liều lượng bằng nhau, phơi khô sắc uống, chữa sỏi thận.
Theo Đào Văn Phan, Trân Ngọc Ân, cao nước rễ nhàu có tác dụng tốt đối với viêm khớp dạng thấp ở
giai đoạn I và II. Qua điều trị bằng rễ nhàu, kết quả đạt 91,6%, trong đó tốt chiếm 56%, trung bình 35,6%.
-
Quả nhàu chín ăn với muối có tác dụng giúp tiêu hoá, nhuận tràng, lợi tiểu, điều kinh. Quả nhàu non (3 quả) phối hợp với rễ mía dò (10g), củ tầm sét (10g); phơi khô, tán nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống trong ngày chữa tụ huyết do ngã hay bị đánh. Quả nhàu nướng chín ăn chữa kiết lỵ.
-
Lá nhàu,để tươi,rửa sạch giã nhỏ đắp, làm mụn nhọt sớm mưng mủ, mau lành, chóng lên da non. Lá nhàu phơi khô (10g) thái nhỏ sắc uống chữa sốt rét, kiết lỵ. Lá nhàu còn được dùng nấu canh ăn.
Các nước ở châu Á cũng dùng các bộ phận của cây nhàu để làm thuốc, ở Trung Quốc, Nhật Bản, nước sắc rễ nhàu được dùng làm thuốc bổ, thuốc hạ sốt. Ở Đài Loan, nước sắc của rễ dùng chữa lỵ. Ở Philippin, cao toàn phần rễ nhàu chữa bệnh cao huyết áp, sung huyết, trĩ, xuất huyết não. Ở Malaysia, lá nhàu hơ nóng đắp lên ngực, bụng chữa ho, nôn mửa, đau bụng, lách to. Nước ép từ quả chữa ho, sốt, tiểu tiện khó, đái đường, giun sán, kinh nguyệt không đều. Dịch hãm từ vỏ, rễ hoặc quả nhàu được dùng dể rửa vết thương giúp chóng lành bệnh.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam