Bồ Hòn (Sapindus mukorossi Gaertn.)
Tên khác: Vô hoạn, bòn bòn, mộc hoạn tử, mác hón (Tày), co hón (Thái), mầy quyến ngần (Dao).
Tên nước ngoài: Soap - nut tree, soap - berry (Anh); savonnette, savonnier (Pháp).
Họ: Bồ hòn (Sapindaceae).
Mô tả:
Cây gổ to, cao 5 - 10 m hay hơn, rụng lá vào mùa khô. Lá kép lông chim, mọc so le, có 4 - 6 đôi lá chét mọc gần đối, nhẵn, gốc lệch, đầu nhọn, mép nguyên, gân nổi rõ ở cả hai mặt.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chùm hoặc chùy gồm rất nhiều hoa nhỏ, màu lục nhạt; đài 5 răng có ít lông; tràng 5 cánh hình trứng có vảy ngắn ở gốc, có lông, không nở xoè; nhị 8, cong, dài hơn tràng; bầu hình trứng nhẵn, có 3 ô.
Quả hình cầu, có đường sống nổi rõ, vỏ ngoài (cùi) dày, khi chín nhăn nheo, màu vàng nâu; hạt tròn màu đen.
Mùa hoa: tháng 7 - 9; mùa quả: tháng 10-12
Bộ phận dùng:
Quả và hạt. Quả hái vào mùa thu, để nguyên hoặc bỏ hạt phơi khô.
Thành phần hóa học:
Quả bồ hòn là nguồn nguyên liệu giàu saponin. Trong thịt quả có tới 18% saponosid. Saponin mukorosin C52H84O11 2H2O (đc 155 - 1560) đã được chiết ra dưới dạng kết tinh. Khi thủy phân cho ta genin là hederagenin và đường là L - arabinose, DI - glucose, L - rhamnose, và D - xylose.
Các sapindosid có trong bồ hòn như sapindosid A, B, C, D, E, E1, X, Y, Y2... đều là những saponin triterpen.
Ngoài ra còn có mukuroyiosid la, Ib, Ila, Ilb là những saponin có hoạt tính bề mặt mạnh.
Nhiều phương pháp chiết xuất saponin từ quả bồ hòn đã được mô tả, trong đó phương pháp đơn giản nhất là đun sôi bột quả với nước, cô đặc dịch chiết và tủa saponin bằng sulfat amoni.
Hạt bồ hòn chứa 9-10% dầu béo.
Tác dụng dược lý:
Áp dụng phương pháp khuyếch tán dùng khoanh giấy lọc để nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn in vitro của quả bồ hòn đối với một số vi khuẩn gram dương và gram âm. Gây nhũ tương hóa cao chiết thô hoặc hoạt chất chiết từ dược liệu với 0,5% Tween 80 hoặc gôm acacia (trừ trường hợp cao chiết với nước hoặc những hoạt chất tan trong nước) trong nước cất để có nồng độ 100mg/ml. Thực hiện những nồng độ pha loãng tiếp theo với lượng nước cất gấp 3 lần.
Cao chiết với nước quà bồ hòn có tác dụng ức chế sự phát triển của Staphylococcus aureus, Staphylococcus pyogenes, và Staphylococcus Viridans và ức chế yếu các vi khuẩn: Diplococcus pneumoniae và Corynebacterium diphteriae. Cao chiết với ethanol quả bồ hòn có tác dụng ức chế đối với Staphylococcus aureus, Staphylococcus pyogenes và ức chế yếu Staphylococcus viridans, D. pneumoniae và C diphteriae.
Đã thử nghiệm cao chiết từ phần trên mặt đất của cây bồ hòn về tác dụng diệt tinh trùng. Để một lượng nhỏ chất chứa bên trong ống dẫn tinh hoặc mào tinh hoàn trên hai giọt dịch chiết bồ hòn trên một bản kính. Trộn bằng đũa thủy tinh trong vài giây và soi ngay dưới kính hiển vi đối pha. Kết quả dương tính nếu 100% tinh trùng bất động ngay tức thì. Kiểm tra sự sống lại của tinh trùng bằng cách cho thêm dung dịch đệm vào mẫu tinh trùng đã được làm bất động. Những cao thực vật có hoạt tính dương tính trên tinh trùng của chuột được thử trên tinh dịch pha loãng của người (30 phút sau khi phóng tinh).
Bồ hòn (phần trên mặt đất) đã biểu lộ hoạt tính diệt tinh trùng đối với tinh trùng của chuột cống trắng và của người.
Đã chứng minh những saponin chiết từ một số cây có tác dụng diệt tinh trùng, trong đó hỗn hợp saponin toàn phần từ vỏ qủa bồ hòn có tác dụng mạnh nhất Hoạt tính diệt tinh trùng của cây này kết hợp với tip acid olean - c - 28 - carboxylic của sapogenin. Một dạng kem bào chế từ saponin toàn phần của bồ hòn đã được thử dược lý và lâm sàng để áp dụng tại chổ ở âm đạo làm thuốc chống thụ thai
Đã nghiên cứu áp dụng cao lỏng bồ hòn để điều trị bỏng trên 206 bệnh nhân. Tẩm cao lỏng bồ hòn vào bông thấm nước có bọc gạc đắp lên vết bỏng sau khi đã rửa sạch. Về nguyên nhân bỏng gồm có bỏng do nước sôi, do vôi tôi, bỏng lửa, bỏng do sét đánh. Diện tích bỏng khoảng: 5 - 30 %, hầu hết là bỏng độ II, có ít trường hợp bỏng độ I và III. Thời gian điều trị trung bình 9-12 ngày. Kết quả thấy vết bỏng ít làm mủ, không hôi thối, chóng lên da non, giảm bớt được lượng kháng sinh toàn thân, rút ngắn ngày điều trị. Nhược điểm của cao lỏng bồ hòn là sau khi đắp thuốc, bệnh nhân thấy xót, có cảm giác nóng bên trong, nhất là lần đầu. Băng dính vào vết bỏng khó bóc, phải thấm ướt bảng với nhiều huyết thanh mặn đẳng trương.
Không nên dùng dạng thuốc mỡ bồ hòn để trị bỏng, vì đã áp dụng trên 10 bệnh nhân thấy vết thương bỏng có nhiều mủ.
Tính vị, công năng:
Rễ bồ hòn có vị đắng, tính mát, hơi độc, vào các kinh phế, tỳ, có tác dụng tiêu đờm hóa trệ. Quả bồ bòn có tác dụng sát trùng.
Công dụng:
Nhân dân thường dùng quả bồ hòn giặt quần áo thay xà phòng, tốt nhất đối với trường hợp giặt đồ len, lụa không chịu được độ kiềm của xà phòng. Theo tài liệu cổ, bồ hòn có tác dụng chữa ho trừ đờm, nhân quả bồ hòn có tác dụng chữa hôi miệng, sâu răng. Ở một số vùng, nhân dân dùng vỏ cây bồ hòn giã nát ngâm nước tắm cho động vật bị bọ, rận, chấy.
Trong y học dân gian Ấn Độ, để điều trị viêm phổi người ta dùng bột vỏ quả bồ hòn trộn với mật ong, làm thành viên hoàn mỗi viên khoảng 2g. Mỗi lần uống một viên, trộn với sữa nóng, ngày 2 lần.
Nhân dân một số vùng ở Nepal dùng vỏ quả bồ hòn tán nhỏ thành bột nhão đắp hàng ngày vào chỗ bị bệnh để trị những bệnh ngoài da như ghẻ và bệnh nấm da. Cũng dùng vỏ quả bồ hòn tán nhỏ, trộn với 2 lần lượng bột ngô và dùng gội đầu thường xuyên để trị gầu và diệt chấy
Bài thuốc có bồ hòn:
- Chữa hôi miệng, trừ sâu răng:
Nhân quả bồ hòn (5 - 10g) tán bột, ngậm nhổ nước.
- Diệt sâu, trừ giòi:
a) Vỏ cây tươi bồ hòn giã nát, hòa với nước, đem phun.
b) Vỏ quả bồ hòn, sắc lấy nước đặc, đem tưới.
- Chữa hắc lào:
Vỏ quả bồ hòn (20g), củ riềng già (10g). Tán nhỏ, ngâm với 20ml cồn 90°, dùng bôi.
- Chữa ghẻ lở, hắc lào:
Quả bồ hòn bỏ hạt nấu thành dầu, rồi tán hạt củ đậu với diêm sinh lượng bằng nhau, hòa lẫn vào để bôi sau khi đã xát rửa sạch nơi bị bệnh với nước nóng.
- Chữa họng tắc, không nuốt được:
Vỏ qủa bồ hòn đồ, phơi, tán nhỏ, thổi vào họng.
- Phòng ngừa đỉa cắn:
Dầu quả bồ hòn, bôi vào đùi và chân trước khi lội xuống ao. ruộng.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam