Bồ Công Anh (Lactuca indica L.)
Tên khác: cây mũi mác, diếp dại, diếp trời, rau bồ cóc, rau mét, phắc bao, lin hán (Tày), lày máy kìm (Dao)
Tên nước ngoài: Indian lettuce (Anh), laitue indienne, laitue d' Inde (Pháp)
Tên đồng nghĩa: Lactuca squarrosa Miq., L. brevirostris Champ.
Họ: Cúc (Asteraceae)
Mô tả:
Cây thảo, mọc đứng, sống một hay hai năm. Thân nhẵn, thẳng, cao 0,5 - 1 m, có khi đến 2 m, ít phân cành, đôi khi có những đốm tía. Lá mọc so le, gần như không cuống, rất đa dạng. Những lá ở dưới thuôn dài, xẻ thuỳ không đều, hẹp và sâu, thuỳ lớn và thuỳ nhỏ xen kẽ nhau, mép có răng cưa, gốc tù, đầu nhọn; các lá ở giữa và ở trên ngắn và hẹp hơn, có ít răng hoặc hoàn toàn nguyên.
Cụm hoa là một đầu, tụ họp thành chuỳ dài 20 - 40 cm, mọc ở ngọn thân và kẽ lá, phân nhánh nhiều, mỗi nhánh mang 2 - 5 đầu; tổng bao hình trụ, mỗi đầu có 8 - 10 hoa màu vàng hoặc vàng nhạt; tràng hoa có lưỡi dài, ống mảnh; nhị 5, bao phấn có đỉnh rất tròn, tai hình dùi, vòi nhuỵ có gai.
Quả bế, màu đen, có mào lông trắng nhạt, 2 cạnh có cánh, 2 cạnh khác giảm thành một đường lồi. Thân và lá khi bấm có nhựa màu trắng chảy ra.
Mùa hoa: tháng 6 - 7; mùa quả: tháng 8 - 9
Cây dễ nhầm lẫn:
Bồ công anh tím - Cichorium intybus L.chicory, wild endive (Anh), chicorée (Pháp). Cây nhập trồng, có nguồn gốc ở vùng Địa trung hải.
Bộ phận dùng:
Cả cây bồ công anh, thu hái vào tháng 5 - 7, lúc này chưa có hoa, dùng tươi hay phơi khô.
Thành phần hoá học:
Bồ công anh chứa 91,8% nước, 3,4% protid, 1,1% glucid, 2,9% xơ, 1,2% tro, 3,4mg% caroten, 25mg% vitamin C, 2 chất đắng chính là lactucin và lactucopicrin. Ngoài ra, còn có b - amyrin, taraxasterol, germanicol.
Tác dụng dược lý:
Bồ công anh được thử nghiệm với phương pháp lồng cử động để thể hiện tác dụng an thần.
Flavonoid của bồ công anh đã được nghiên cứu tác dụng sinh học thấy vó tác dụng ức chế men oxy hoá khử peroxydase và catalase máu chuột cống trắng. Những thí nghiệm tiến hành với huyết thanh người cũng cho những kết quả ức chế men oxy hoá khử rõ rệt.
Theo tài liệu nước ngoài, tại một số nước, người ta có sử dụng và nghiên cứu những loài Lactuca khác như L. virosa, L. sativa (rau diếp ăn), thấy những cây này không độc và có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương gây ngủ nhẹ.
Tính vị, công năng:
Bồ công anh có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, có tác dụng giải độc, tiêu viêm, thanh nhiệt, tán kết.
Công dụng:
Bồ công anh được dùng điều trị tỳ vị có hoả uất, sưng vú, áp xe, tràng nhạc, mụn nhọt. Ngày dùng 20 - 40g cây tươi ép lấy nước hoặc 8 - 30g cây khô sắc uống. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Đắp ngoài trị ung nhọt. Có trường hợp dùng uống để điều trị bệnh đau dạ dày, ăn uống kém tiêu.
Kiêng kỵ: Trong các trường hợp âm hư hoặc tràng nhạc, ung nhọt đã vỡ mủ, khi dùng bồ công anh nên thận trọng.
Bài thuốc liên quan:
- Thuốc tiêu độc chữa sưng vú, mụn nhọt:
Bồ công anh 12g, ké đầu ngựa 12g, vòi voi 12g, liên kiều, 12g, kim ngân hoa 10g, kinh giới 10g, hạ khô thảo 10g, cỏ mần trầu 10g. Tất cả phơi khô, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. (kinh nghiệmc của bệnh viện Hưng Yên - Hải Hưng)
- Chữa đau dạ dày:
Lá bồ công anh khô 20g, lá khôi 15g, lá khổ sâm 10g, nước 300ml. Đun sôi trong vòng 15 phút, thêm đường, chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong vòng 10 ngày. Nghỉ 3 ngày rồi lại tiếp tục cho đến khi khỏi.
- Chữa mụn nhọt, làm nhọt chóng chín và vỡ mủ:
Lá bồ công tươi phối hợp với lá phù dung, rễ vông vang hoặc rễ gai, giã đắp.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam