Chôm Chôm (Nephelium lappaceum L.)
Tên khác: Vải thiều gai, vải guốc, trường chua.
Tên đồng nghĩa: Nephelium chryseum Blume, N.maigayi Hiern
Tên nước ngoài: Ramboutan (Anh); litchi chevelu (Pháp).
Họ: Bồ hòn (Sapindaceae).
Mô tả:
Cây to, cao 15m, có thể đến 20m hay hơn (ở trạng thái tự nhiên) hoặc 5 - 8m (ở cây trồng). Cành có lông khi non, sau nhẵn. Lá kép lông chim chẵn, mọc so le, 1 - 4 đôi lá chét, thường là 2 - 3; lá chét mọc so le hoặc gần đối, có cuống ngắn, phiến cứng và dai, hình trứng ngược hoặc bầu dục - thuôn, dài 5-28 cm, rộng 2 - 10 cm, gốc tròn, đầu nhọn tù, mặt trên nhẵn hoặc có lông trên gân chính, mặt dưới có lông rải rác, gân nổi rõ.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá gần ngọn thành chùm có cuống dài, đôi khi dài hơn lá; đài hình đấu, 4 - 6 răng hơi nhọn; tràng 0; nhị 5 - 8, chi nhị có lông, đĩa dẹt phân thùy; bầu 2 ô có lông.
Quả hình bầu dục, dài 5 - 7 cm, rộng 4 - 5 cm, có gai mềm, dài và cong, thường kèm theo phân quả lép, khi chín màu đỏ hay vàng cam; hạt có áo hạt dính và vỏ cứng.
Mùa hoa: tháng 3 - 4; mùa quả: tháng 5-7,
Bộ phận dùng:
Quả, vỏ quả. Vỏ cây.
Thành phần hoá học:
Áo hạt chứa protein 0,46, đường khử 2,9, sucrose 5,8, chất xơ 0,24, chất vô cơ, Ca 10,6, P 12,9, và vitamin C 30 mg/100g.
Vỏ quả chứa tanin và saponin độc.
Nhân chứa acid béo gồm các acid palmitic 2,0, Stearic 13,8, arachidic 34,7, oleic 45,3, eicosensic 4,2% [Sastri et al, The wealth of India, VII, 1966, 13].
Theo Võ Văn Chi, Từ điển cây thuốc, 1997, hạt chứa 35 - 40% chất dầu đặc gồm arachidin, olein, stearin.
Tác dụng dược lý:
- Tác dụng kháng vi sinh vật của monoterpen lacton chiết từ hạt chôm chôm
Hạt chôm chôm được chiết bằng dicloromethan, sau đó phân lập được một số chất, trong đó có 2 monoterpen lacton mới đã xác định được cấu trúc hóa học. Hai chất này đã được thử tác dụng trên một số vi sinh vật và thấy có tác dụng ức chế trên một số vi khuẩn và vi nấm (Ragasa et al., 2005).
- Tác dụng kháng virus Herpes simlex của vỏ quả chôm chôm
a) Chất thử: Cao khô chiết bằng methanol của vỏ quả chôm chôm. Lọc. Cất thu hồi dung môi. Cô dưới áp suất giảm đến khô.
b) Phương pháp: Thử trên mô hình gây nhiễm virus herpes simplex Tip I (HSV - 1: Herpes simplex virus type 1) ở chuột nhắt trắng. HSV - 1 là loại virus thường gây ra lở loét mụn rộp ở môi. miệng, thực quản, mặt, còn HSV - 2 thường gây bệnh ở bộ phận sinh dục, trực tràng (cả 2 loại còn có thể gây bệnh ở da. màng não hoặc não).
c) Kết quả: Lô chuột dùng cao vỏ quả chôm chôm làm chậm sự phát triển các vết lở loét trên da chuột và giảm có ý nghĩa tỷ lệ chuột chết so với lô đối chứng (Nawawi et al., 1999).
- Bảo quản quả chôm chôm bằng Lactobacillus plantarum và chitosan
a) Mục đích thử nghiệm: Thử tác dụng của vi khuẩn Lactobacillus plantarum và chitosan trên chất lượng quả và khả năng giữ màu của vỏ quả chôm chôm.
b) Điều kiện bảo quản: Nhiệt độ 25°c và 10°c: độ ẩm 75 ± 2.5%; thời gian 10 ngày và 15 ngày.
c) Kết quả: Dùng vi khuẩn Lactobacillus plantarum cải thiện được có ý nghĩa việc duy trì được màu của vỏ quả và làm giảm sự mất khối lượng của quả. Vi khuẩn dùng đơn độc hoặc phối hợp thêm với chitosan giữ được chất lượng cùa quả về độ chắc của quả, hàm lượng chất rắn tan và độ acid. Nhúng quả chôm chôm vào dịch có Lactobacillus plantarum làm tăng độ acid của vỏ quả và tránh được vỏ quả bị thâm. Chitosan tạo nên một lớp bảo vệ, ngăn ngừa sự khô của quả (Martinez - Castellanos et al., 2009).
- Chống kiến lửa cho vườn chôm chôm
a) Đối tượng chống: Là kiến lửa nhỏ, tên khoa học là Wasmannia auropunctata (Roger) sống thành quần thể gây hại cây ở các vườn ươm cây, vườn cây ăn quả, đồng cỏ. Nghiên cứu năm 1999 ở Hawaii thấy số lượng kiến là 244 triệu con, cân nặng 22,7 kg cho 1 ha vườn chôm chôm.
b) Các chất thử: Amdro (hydramethylnon; để ở các trạm bẫy kiến), Esteem (pyriproxifen; để bẫy ở khắp nơi trong vườn chôm chôm), và Conserve (spinosad; phun trên mặt đất).
c) Phương pháp: Cứ 2 tuần thì bẫy 1 lần trong 16 tuần. Vườn chôm chôm được chia thành 4 khu, 3 khu 3 thuốc và 1 khu đối chứng. Xác định số lượng kiến một cách tương đối ở mỗi khu vực bằng cách dùng que có bơ để bẫy kiến, vào tuần 13,15 và 17.
d) Kết quả: số lượng kiến ở lô đối chứng tăng 185,9% so với trước khi thử nghiệm. Lô dùng Amdro, số lượng kiến giảm 47,1%; lô dùng Esteen, kiến giảm 92,5%; còn lô dùng Conserve lượng kiến không giảm so với lô đối chứng. Không có khu vực nào sau xử lý không còn con kiến nào (Souza et al,, 2008).
Tính vị, công năng:
Áo hạt quả chín của cây chôm chôm vị ngọt, chua dễ chịu, tính ấm, có công năng giải nhiệt, bổ dưỡng. Quả xanh làm se, thanh nhiệt; vỏ cây, vỏ quả làm se; hạt đắng gây say không ăn được. Sách 'Lục xuyên bản thảo' ghi: vỏ quả có công năng tiêu viêm, sát trùng, trị viêm xoang miệng, bệnh lỵ, nước sắc đặc rửa trị mụn nhọt, lở loét ngoài da [TDTH, 1997,III: 1407].
Công dụng:
Áo hạt chôm chôm ăn được nhưng kém áo hạt quả vải do dính vào hạt; vị chua ngọt, thơm dễ chịu để giải nhiệt, bổ dưỡng. Hạt đắng và gây say, chứa 35 - 48% chất béo đặc gần như bơ ca cao, gồm chủ yếu là arachidin và olein, có thể dùng để chế xà phòng hay nến thắp sáng.
Quả xanh và vỏ quả được dùng chữa ỉa chảy, kiết lỵ, sốt. Cũng được dùng trị sốt rét, tẩy giun. Liều dùng 20 - 40g sắc uống trong ngày. Trong vỏ quả có tanin và một saponin độc.
Ở Malaysia, vỏ cây được dùng chữa bệnh về lưỡi; rễ, vỏ cây, vỏ quả, lá sắc uống để chữa sốt rét [Perry et al., 1980: 374].
Ở Indonesia, vỏ quả thường có trong các cửa hàng bán dược liệu, được dùng chữa sốt, kiết lỵ, ỉa chảy. Hạt có chất béo được cấu tạo từ acid oleic, acid arachidonic, một ít acid Stearic, được dùng làm xà phòng, nến thắp. Trong hạt cũng chứa tinh bột [Perry et al., 1980: 374].
Ở Campuchia, nhân dân dùng quả xanh, sắc lấy nước uống để chữa ỉa chảy và sốt [Kirtikar et al., 1998: 639].
Ở Ấn Độ, áo quả chôm chôm chín được dùng để giải nhiệt và chữa sốt [Nadkarni, 1999: 846]. Ở Trung Quốc, còn dùng quả xanh sắc uống để bổ vị và trừ giun [Chopra et at., 2001: 175}.
Dùng ngoài, lấy vỏ quả. vỏ thân, quả xanh hoặc rễ sắc lấy nước đặc rửa lên các chỗ lở loét, mụn nhọt ngoài da.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam