Cỏ Tranh (Imperata cylindrica (L.) Beauv.)

Tên khác: Cỏ tranh săng, bạch mao căn, nhả cà.
Tên nước ngoài: Alang - grass, alang - alang, beddinh grass (Anh); herbe à paillote (Pháp).
Họ: Lúa (Poaceae)

Mô tả:

Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,6 - 1,2m. Thân rễ khoẻ, cứng và dai, màu trắng, phủ bởi nhiều vảy. Thân có lông cứng. Lá hình dải hẹp, dài, thuôn nhọn ở đầu, nhẵn hoặc có lông ở mặt dưới, mặt trên và mép lá ráp, lá non màu lục nhạt, bóng, cuộn lại, bẹ lá mảnh, lưỡi bẹ mềm, ngắn, có lông dài.

Cụm hoa là chuỳ dày đặc những bông nhỏ, màu trắng thuôn dài 5 - 20 cm, bông nhỏ thường xếp đôi một, màu tím nhạt, có lông tơ mịn, mày mềm, màu lục nhạt, có lông; hoa có 2 nhị, chỉ nhị rất dài, bao phấn thuôn hình dải; bầu màu nâu hay tím đen.

Mùa hoa quả: gần như quanh năm

Bộ phận dùng:

Thân rễ cỏ tranh đào về (không lấy loại rễ trên mặt đất) rửa sạch đất cát, tuốt bỏ lá khô và rễ con, rồi đem phơi hoặc sấy khô.

Thành phần hoá học:

Cỏ non chứa protein 6,56%, Ca 0,39%, N 1,05%, P 0,22%, tinh bột 10,7%, vitamin A và vitamin C.

Thân rễ chứa đường toàn phần 22,05%, đường khử 9,20%, đường chuyển hoá 12,45%. Có tài liệu nói rõ hơn là có chứa glucose, fructoso. Theo cuốn Trung dược từ hải II, 1996 cỏ tranh chứa arundoin 0,1%, fernenol 0,001%, simiarenol 18,8%. Theo Prosea 12 (1), thân rễ có các biphenyl ether cylindol A và B, các hợp chất phenol imperane, chất sesquiterpen cylindren, các lignan gravanon A và B.

Tác dụng dược lý:

  1. Tác dụng lợi tiểu

Thí nghiệm trên thỏ dạng chiết bằng nước và sắc rễ cỏ tranh cho thẳng vào dạ dày có tác dụng lợi tiểu, dùng thuốc 4 - 5 ngày tác dụng lợi tiểu xuất hiện ở mức tối đa. Về cơ chế tác dụng, có tác giả cho rằng tác dụng lợi tiểu của rễ cỏ tranh có liên quan đến hàm lượng phong phú của muối kali trong rễ.

  1. Tác dụng cầm máu

Nước sắc hoa cỏ tranh thí nghiệm trên thỏ bằng đường uống với liều 0,5g/kg trong 3 ngày, thì thời gian đông máu và thời gian chảy máu của thỏ thí nghiệm đều rút ngắn.Tác dụng này được duy trì trong vài ngày. Ngoài ra thuốc còn có tác dụng giảm sức thẩm thấu của thành mạch, tăng cường sức đề kháng của mao quản.

  1. Tác dụng kháng khuẩn

Nước sắc rễ cỏ tranh thí nghiệm trên môi trường nuôi cấy có tác dụng ức chế trực khuẩn lỵ Shigella.

  1. Các tác dụng khác

Chất coixol có trong thân rễ, có tác dụng ức chế sức co bóp của cơ vân. Chất cylindol có ảnh hưởng tới hoạt tính của men - lipooxygenase, chất imperanene có tác dụng ức chế ngưng kết tiểu cầu thỏ. Ngoài ra, rễ cỏ tranh còn có tác dụng an thần, giải nhiệt, giảm đau.

Tính vị, công năng:

Rễ cỏ tranh được dùng chữa bệnh nhiệt phiền khát, tiểu tiện khó khăn, đái ít, đái buốt, đái ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, phù viêm thận cấp, hen suyễn.

Hoa cỏ tranh chữa chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu, chảy máu vết thương. Liều dùng 9 - 15g/ ngày, sắc nước uống.

Bài thuốc cỏ tranh:

  1. Thuốc lợi tiểu, thanh nhiệt:

Rễ cỏ tranh 50g, râu ngô 40g, mã đề 25g, cúc hoa 5g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 600ml nước, còn 200ml uống làm 2 - 3 lần trong ngày. Trẻ em dưới 14 tuổi dùng 2/3 liều người lớn.

  1. Chữa hen suyễn (Như thần thang Thánh Huệ Phương):

Bạch mao căn 60g, tang bạch bì 60g, sắc với 400ml nước, còn 200ml, bỏ bã, uống lúc còn nóng sau bữa ăn.

  1. Chữa đi tiểu ra máu:

Bạch mao căn, xa tiền tử mỗi thứ 30g, sắc nước, thêm đường uống.

  1. Chữa chảy máu mũi:

Bạch mao căn, ngẫu tiết, mỗi vị 15g, sắc nước để nguội uống.

  1. Chữa ợ hơi, nôn khi ăn:

Bạch mao căn, lô căn mỗi vị 28g, chặt nhỏ, đun với 800ml nước còn 400ml, chia làm nhiều lần uống trong ngày.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post