Đậu Đỏ (Phaseolus angularis (Willd.) W.F. Wight)
Tên khác: Xích tiểu đậu, má thúa lanh (Thái).
Họ: Đậu (Fabaceae).
Mô tả:
Cây thảo, sống hàng năm, cao 30 - 90cm. Thân, cành phủ lông dài và thưa. Lá kép mọc so le, có cuống dài, gồm 3 lá chét hình trứng hoặc hơi tam giác, gốc lệch, đầu hơi nhọn, mép nguyên, hai mặt có ít lông.
Hoa 5 - 6 cái màu vàng mọc ở kẽ lá; dài hình chuông, 5 răng; tràng có cánh cờ không cuống, cánh thìa cong; nhị 10 xếp thành 2 bố.
Quả Hình trụ, dài và nhẵn; hạt màu hồng sẫm.
Bộ phận dùng:
Hạt, thu hái vào lúc quả chín chưa nứt, phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học:
Hạt đậu đỏ chứa protein 20,7g%, lipid 0,5g%, carbohydrat 58 g%, celulose thô 4,9 g%, tro 3,3 g%, Ca 67 mg%, P 305 mg%, Fe 5,2 mg%, vitamin B1, riboflavin 0,11 mg%, acid béo 0,71%, saponin 0,27%, phytosterol, sắc tố (Trung dược từ hải II, 1996, Trung thảo dược học II, 1976).
Hạt, lá và rễ chứa triacylglycerol, monoglycosylglycerol, diglycosyldiacylglycerol, phosphatidylcholin, phosphatidylethanolamin và phosphatidylinositol. Quả chứa azukisaponin 1 và 5 sterylglycosid. Lá mầm có 2 arabinogalactan acid F2A và F2B trong đó có arabinose, galactose và acid galacturonic theo tỷ lệ thứ tự là 13,1: 5,9: 1,0 và 3,0: 2,2: 2,0 (Compendium of Indian Medicinal Plants, vol. 5 (1990 -1994,1998).
Tác dụng dược lý:
Tác dụng kháng khuẩn: Dịch chiết nước 20% của hạt đậu đỏ có tác dụng ức chế tụ cầu Staphylococcus aureus, trực khuẩn lỵ Shigella và trực khuẩn thương hàn Salmonella.
Tính vị, công năng:
Hạt đậu đỏ có vị ngọt nhạt, chua, tính bình, vào hai kinh tâm và tiểu trường, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy, tiêu thũng, trừ thấp, bài nùng, hành huyết.
Công dụng:
Hạt đậu dỏ được dùng trị thủy thũng, sưng phù chân, bụng đầy trướng, đau dạ dày - ruột, tả, lỵ, bệnh beri beri (thiếu vitamin B1), vàng da, đái đỏ, mụn nhọt, lở ngứa ngoài da. Ngày 20 - 40g sắc uống. Có thể chế thành bột để ăn ngày 9 - 16g. Dùng ngoài, hạt tươi hoặc khô, giã nát hoặc tán bột, trộn giấm, đắp.
Rễ tươi giã nát bôi lên chỗ áp xe và nước sắc rễ uống để giải độc. Lá giã nát, làm thành bánh đắp lên bụng để chữa đau dạ dày.
Chú ý: Theo tài liệu cũ, người ăn đậu đỏ lâu ngày sẽ bị khô gầy.
Bài thuốc có đậu đỏ:
- Chữa bệnh lậu, đái buốt ra máu:
Đậu đỏ 30g, sao qua, tán nhỏ. Mỗi lần uống một phần ba với một củ hành nướng nghiền với rượu, ngày 3 lần (Nam dược thần hiệu). Hoặc đậu đỏ và đương quy, lượng bằng nhau, tán bột, ngày uống 10 - 20g.
- Chữa trẻ 5 tuổi còn chậm biết nói:
Đậu đỏ, tán nhỏ, hòa với rượu, bôi vào dưới lưỡi hàng ngày (Nam dược thần hiệu).
- Chữa thấp nhiệt sinh lở và sưng chân:
Đậu đỏ 20g, núc nác, ngưu tất, kim ngân hoa, bồ công anh, đơn đỏ, mỗi vị 12g, sắc uống.
- Chữa phù thũng, da căng, táo bón, khát nước:
Đậu đỏ, cỏ may, cà gai (cành có cả quả chín đỏ), dây bòng bong, mỗi vị 30g. Các vị cắt nhỏ, sao qua, sắc chia 2 - 3 lần uống trong ngày.
- Chữa trĩ chảy máu và đại tiện ra máu:
Đậu đỏ 20g, đương quy 8g, hoa hòe sao 12g. Sắc lấy nước hòa vào 20g keo da trâu, đun cho tan ra, rồi uống.
- Chữa mụn nhọt, đơn độc mới phát, còn sưng nóng đỏ:
Đậu đỏ, tán thành bột, nhào với nước. thay hàng ngày.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam