Củ Mài (Dioscorea persimilis Prain et Burkill)
Tên khác: Khoai mài, sơn dược, mằn chèn (Tày), mán địn, co mằn kép (Thái), mằn ôn (Nùng), hìa dòi (Dao), gò lờn (K'dong).
Tên nước ngoài: Yam (Anh), igname (Pháp).
Họ: Củ nâu (Dioscoreaceae).
Mô tả:
Dây leo có 1 - 2 rễ củ mập hình trụ hơi dẹt, thuôn dần về phía đầu như hình quả bầu, dài 30 - 50 cm, có thể đến 1m, ăn sâu xuống đất. Thân cây nhẵn, hơi có cạnh, đôi khi có màu đỏ, thường mang những củ ngắn, nhỏ ở kẽ lá gọi là dái mài (thiên hoài). Lá đơn mọc so le hay mọc đối, hình tim dài, đầu nhọn, nhẵn, dài 8 - 10 cm, rộng 6 - 8 cm, gân lá 5 - 7, toả ra từ gốc; cuống lá dài 1,5 - 3,5 cm.
Cụm hoa mọc thành chùm ở kẽ lá gồm nhiều hoa nhỏ, màu vàng, hoa đực và hoa cái khác gốc, bao hoa có 6 phiến dài bằng nhau; nhị 6; cụm hoa đực dài 40cm, cụm hoa cái cong, dài 20 cm.
Quả nang có 3 cánh; khi quả khô, cây không còn lá; hạt có cánh mỏng màu nâu xỉn.
Mùa hoa: tháng 5 - 7; mùa quả: tháng 8 -10.
Cây dễ nhầm lẫn
Bên cạnh củ mài, còn nhiều loài khác cũng cho củ ăn được; nhưng không chế biến thành hoài sơn như; Dioscorea glabra Roxb., D.pyrifolia Kunth., D. decipiens Hook., D.intempestiva var. chevalierii Prain et Burkill, D. intempestiva Prain et Burkill, D.hamiltoni Hook., D.brevipetiolata Prain et Burkill, D.kratica Prain et Burkill.
Bộ phận dùng:
Rễ củ mài thu hoạch vào mùa đông và đầu xuân khi cây tàn lụi. Đem củ rửa sạch, gọt vỏ và chế biến bằng cách ngâm với nước phèn để loại bỏ chất nhớt (10g phèn chua trong một lít nước). Sấy diêm sinh liên tục 3 ngày 3 đêm đến khi củ mềm nhũn, lấy ra nhúng nước lã, rửa sạch phơi cho se, lại sấy lưu huỳnh một ngày một đêm cho đến khi củ mềm, phơi đến gần khô lại tiếp tục sấy lưu huỳnh một ngày một đêm nữa.
Chọn củ to trắng, rửa sạch rồi đồ hoặc ủ cho mềm, thái lát hoặc bào mỏng sấy khô để dùng (dùng sống). Nếu dùng chín, đem sao nhỏ lửa cho đến khi dược liệu có màu vàng đều. Củ mài đã chế được gọi là hoài sơn. Muốn có hoài sơn với hình dáng đẹp để xuất khẩu phải chế biến kỹ hơn theo trình tự sau
-
Sấy lưu huỳnh lẩn thứ nhất: Sau khi gọt sạch vỏ, đem xếp củ mài vào lò sấy thưa và đan nhau theo hình chuồng lợn để cho hơi lưu huỳnh được toả đều trên dược liệu (cứ 100 kg củ mài dùng 2 kg lưu huỳnh) sấy 2 ngày 2 đêm, cần ủ lại một đêm, rồi phơi nắng nhẹ hoặc sấy nhẹ cho khô. Đem ngâm nước lã 2 ngày, 2 đêm rồi rửa sạch và phơi nắng đến khô.
-
Sấy lưu huỳnh lần thứ hai: Xếp hoài sơn vào lò sấy như lần trước rồi đốt lưu huỳnh một ngày một đêm (100 kg cử mài dùng 1 kg lưu huỳnh) đến khi dược liệu mềm như chuối, đem ủ trong vại, đậy bằng bao tải có nhúng nước. Đợi một ngày một đêm, đem củ ra, sửa cho đều rồi đặt lên ván mà lăn đến khi hai đầu dược liệu lõm vào, đem phơi hoặc sấy nhẹ cho gần khô, sửa và lăn lại lần nữa cho có hình dáng đẹp. Mặt ngoài nhẵn bóng rồi phơi đến thật khô. Nhúng nhanh vào nước, dùng giấy nháp đánh cho bóng.
-
Sấy lưu hỳnh lần thứ ba: Trước khi đóng hòm, sấy lại hoài sơn một lần lưu huỳnh nữa (100 kg củ mài dùng 200g lưu huỳnh, sấy trong một ngày, một đêm), rồi phân loại
• Loại nhất: 04 khúc cho 500g trọng lượng
• Loại nhì: 06 khúc cho 500g trọng lượng
• Loại ba: 08 khúc cho 500g trọng lượng
• Loại bốn: 10 khúc cho 500g trọng lượng
• Loại năm: 12 khúc cho 500g trọng lượng
• Loại sáu: 14 khúc cho 500g trọng lượng
Hoài sơn tốt phải có màu trắng bóng, không vàng, chất củ rắn chắc không xốp, không có vết lỗ chỗ, không bị sâu mọt. Bảo quản trong hòm kín, để nơi khô ráo, tránh ẩm ướt.
Ở Trung Quốc, người ta cũng chế củ mài tương tự như trên nhưng đơn giản hơn. Chọn củ to, cạo sạch vỏ, xông hơi lưu huỳnh rồi sấy khô. Sau đó, ngâm nước một ngày, đun nhẹ cho chín, đem ra lăn cho tròn, rồi cắt thành từng khúc 12-23 cm, đánh bóng, phơi khô rồi phân loại.
Thành phần hoá học:
Củ mài chủ yếu chứa tinh bột. Ngoài ra, củ còn chứa mucin là một loại protein nhớt, allantoin, các acid amin arginin, cholin và men maltase.
Về phương diện lương thực, củ mài chứa 63,25% tinh bột, 0,45% chất béo, 6,75% chất đạm, là nguồn dự trữ quý, có giá trị dinh dưỡng cao đứng sau gạo và ngô.
Theo tài liệu Trung Quốc, hoài sơn có chất bột 16%, chất nhầy, cholin, 16 acid amin, các men oxy hoá, vitamin c. Trong chất nhầy có acid phytic.
Trong củ, còn có nhiều loại nguyên tố vi lượng mà số lượng tuỳ theo địa điểm cây mọc khác nhau. Ngoài ra, còn có d - abscicin và dopamin (Trung dược từ hải IV, 504).
Tác dụng dược lý:
Một số tác giả đã nghiên cứu tác dụng tăng thân trọng, tăng đồng hoá và tác dụng nội tiết hướng sinh dục của hoài sơn. Thí nghiệm trên chuột cống trắng còn non có thân trọng 45 - 60g gồm cả đực và cái. Cho chuột ăn hoài sơn dưới dạng bột với liều hàng ngày 20g/kg, dùng liên tiếp trong 28 ngày; lô đối chứng cho ăn bột gạo. Các chỉ tiêu theo dõi gồm thân trọng chuột, trọng lượng tử cung, buồng trứng ở chuột cống cái, trọng lượng tinh hoàn, tuyến tiền liệt, túi tinh, cơ nâng hậu môn ở chuột cống đực. Sau lần dùng thuốc cuối cùng cân trọng lượng chuột, sau đó giết chuột bóc tách các cơ quan trên, cân ngay để xác định trọng lượng tươi của chúng. Tiến hành so sánh giữa lô dùng thuốc và lô chứng. Kết quả thí nghiệm cho thấy hoài sơn với liều dùng trên làm tăng có ý nghĩa thống kê 5 chỉ tiêu theo dõi : trọng lượng tử cung ở chuột cống cái, trọng lượng tinh hoàn, trọng lượng tuyến tiến hệt, trọng lượng túi tinh và trọng lượng cơ nâng hậu mồn ở chuột cống đực. Trong khi đó, hoài sơn không có tác dụng với 3 chỉ tiêu: thân trọng chuột cống cái, thân trọng chuột cống đực và trọng lượng buồng trứng.
Theo tài liệu nước ngoài, loài hoài sơn (Dioscorea batatas) có tác dụng tăng hiệu lực của androgen, dịch chiết từ loài trên làm tăng trọng lượng tuyến tiền liệt và túi tinh của súc vật thí nghiệm. Men tồn tại trong hoài sơn ở nhiệt độ thích hợp (45 - 55°C) có khả năng thủy phân đường rất lớn, Nước sắc hoài sơn thí nghiệm trên ruột thỏ cô lập có tác dụng ức chế co thắt ruột do adrenalin gây nên, hồi phục nhu động đều đặn của ruột. Nước sắc hoài sơn bằng đường uống có tác dụng làm lành bệnh viêm loét miệng gia súc.
Tính vị, công năng:
Hoài sơn có vị ngọt, tính bình, vào các kinh phế, tỳ, vị, thận. Có tác dụng bổ tỳ, dưỡng vị, sinh tân, ích phế, bổ thận, chỉ khát.
Công dụng:
Trong y học cổ truyền hoài sơn được coi là một vị thuốc bổ, chữa tỳ vị hư nhược, ăn uống kém tiêu, viêm ruột kinh niên, tiêu chảy lâu ngày không khỏi, phế hư ho hen, bệnh tiểu đường, di tinh, di niệu, bạch đới.
Liều dùng: ngày uống 10 - 20g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác. Hoài sơn với quả giun, hạt keo, ý dĩ có tác dụng chữa trẻ em cam sài, gầy yếu, bụng ỏng đít beo, kém ăn nôn trớ.
Bài thuốc có hoài sơn :
- Chữa tỳ vị hư nhược, ăn ít, đái nhiều, tiêu chảy lâu không khỏi:
Hoài sơn, đảng sâm, bạch truật (sao), mỗi vị 10g. Sắc nước uống. Hoặc dùng hoài sơn nấu cháo với gạo ăn vào mỗi buổi sáng.
- Chữa đau đầu, chóng mặt, chân tay lạnh, đau mình mẩy, ăn uống kém:
Hoài sơn 60g, ngũ vị tử 180g, nhục thung dung 120g, đỗ trọng (sao) 90g, thỏ ty tử 90g, thần phục 30g, ba kích 30g, thục địa 30g, ngưu tất 30g, trạch tả 30g, xích thạch chỉ 30g. Tất cả nghiền thành bột, trộn với hồ làm thành viên bằng hạt đậu đen. Mỗi lần uống 20 - 30 viên.
- Phì nhi hoàn (thuốc kiện tỳ tiêu thực, dùng cho trẻ em gầy yếu):
Hoài sơn (sao) 60g, phục linh 45g, bạch biển đậu (sao) 45g, sơn tra 45g, mạch nha 45g, thần khúc 45g, đương quy 45g, bạch truật (sao) 30g, trần bì 30g, sử quân tử 30g, hoàng liên 20g, cam thảo 20g. Tán bột rây mịn, trộn với mật làm thành viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 3g, ngày 2 - 3 lần.
- Chữa di mộng tinh:
Hoài sơn, quả chốc xôi (sao vàng) sắc uống.
- Chữa bệnh tiểu dường:
Hoài sơn 180g, liên tử 90g, phục linh 40g, ngũ vị tử 350g, thỏ ty tử 300g. Nghiền thành bột rây mịn, thêm rượu trộn với hồ làm thành viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm.
- Chữa suy dinh dưỡng trẻ em có kèm theo tiêu chảy:
Hoài sơn 100g, phòng đảng sâm 50g (hoặc bố chính sâm 50g), ý dĩ 100g, bạch truật 50g, mạch nha 100g, hạt cau 25g, vỏ quýt 25g. Tất cả sao vàng, tán thành bột mịn, trộn đều, mỗi ngày ăn 16 - 20g bột.
- Chữa bệnh dương uỷ, lưng đau:
Hoài sơn 10 phần, ba kích 12 phần, đỗ trọng 12 phần, ngưu tất 12 phần, quế tâm 8 phần, cẩu tích 8 phần, độc hoạt 8 phần, ngũ gia bì 10 phần, sơn thù du 10 phần, phòng phong 6 phần. Nghiền thành bột mịn, trộn đều, thêm mật làm thành viên, uống vào lúc đói, với liều 10g.
- Món ăn - vị thuốc có hoài sơn (tài liệu nước ngoài):
-
Thuốc bổ thận tinh, cố tràng vị: Hoài sơn nấu với gạo thành cháo, ăn.
-
Chữa sỏi mật, kèm theo tiểu đường: Hoài sơn 60g, ý dĩ 120g, lách lợn 1 cái. Nấu cháo ăn trong ngày.
Chú thích: Một số địa phương dùng củ cọc (Dioscorea alata L.) thay hoài sơn. Thí nghiệm trên súc vật, củ cọc dùng cùng liều với hoài sơn, chỉ có tác dụng làm tăng trọng lượng tuyến tiền liệt và trọng lượng cơ nâng hậu môn với mức độ tác dụng thua kém hoài sơn, đồng thời không thể hiện tác dụng làm tăng trọng lượng tử cung ở chuột cống cái.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam