Gừng Gió (Zingiber zerumbet (L.) Sm.)

Tên khác: gừng dại, gừng rừng, phong khương, khinh kèng (Tày)
Tên nước ngoài: Zerumbet ginger (Anh); gingembre zerumbet, gingembre (Pháp)
Họ: gừng (Zingiberaceae)

Mô tả:

Cây thảo, cao 1m hay hơn. Thân rễ dạng củ, phân nhánh, màu trắng vàng nhạt, có mùi thơm. Thân khí sinh khoẻ, mọc đứng, nhẵn. Lá không cuống, mọc thành hai dãy, hình mác thuôn, gốc hẹp dần, đầu nhọn dài, dài khoảng 20cm, rộng 5cm, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông rải rác; bẹ lá to nhẵn, lưỡi bẹ tròn, dễ gãy.

Cụm hoa dạng trứng, đôi khi hình trụ, mọc từ thân rễ trên một cán mập, dài 20 - 30 cm, phủ bởi những lá bắc xếp lợp, mép màu lục nhạt, chia 3 thuỳ ngắn, nhị lép tạo thành thuỳ bên của cánh môi, bầu hình ellip.

Quả nang, hình bầu dục, chứa ít hạt màu đen.

Mùa hoa: tháng 7 - 9

Bộ phận dùng:

Thân rễ thu hái vào mùa thu đông, phơi hoặc sấy khô.

Thành phần hoá học:

Gừng gió chứa tinh dầu, dầu béo và nhựa dầu.

Thành phần chủ yếu của tinh dầu là các monoterpen (13%) và nhiều sesquiterpen. Các monoterpen gồm a - pien, camphen, limonen, cineol và camphor. Các sesquiterpen chủ yếu là humulen chiếm 27%, sesquiterpen monocyelic ceton và 37,5% zerumbon, trong đó, zerumbon là thành phần chính của tinh dầu gừng gió.

Tác dụng dược lý:

Zerumbon có tác dụng ức chế sự phát triển của tục cầu vàng và trực khuẩn lao.

Tính vị, công năng

Thân rễ gừng gió có vị cay, đắng, mùi thơm hăng, tính ấm như gừng, nhưng không thơm và nóng bằng gừng. Có tác dụng tán phong hàn, trị huyết ứ.

Công dụng:

Gừng gió tương tự như gừng, có tác dụng chữa trúng gió, đau bụng, sưng tấy đau nhức, có liều 20 - 30g, phối hợp với các vị thuốc khác. Để chữa đau nhức chân tay mình mẩy, thân rễ gừng gió giã nát, hoà với rượu, dùng xoa bóp hàng ngày.

Ở Ấn Độ, gừng gió cũng dùng như gừng làm chất kích thích, gây trung tiện, chữa khó tiêu, đau bụng đầy hơi. Thân rễ gừng gió và rễ xuyên tâm liên (lượng bằng nhau) chế thành bột nhão, mỗi lần uống 1 thìa cà phê, ngày 3 lần trong 15 ngày, chữa ho gà.

Bài thuốc có gừng gió:

  1. Chữa trúng gió bị ngất, tay chân lạnh:

Gừng gió 20 - 30g, giã nhỏ chế thêm rượu, vắt lấy nước cốt uống. Dùng bã chưng nóng xoa bóp khắp mình.

  1. Chữa bị thương ứ máu hay đơn độc, sưng tấy:

Gừng gió, nghệ vàng, nghệ đen, mỗi vị 15g, giã nhỏ, chế thêm một chén giấm, vắt lấy nước cốt uống, rồi lấy bã chưng nóng đắp vào chỗ đau.

  1. Chữa vết thương:

Thân rễ gừng gió, lá chàm mèo, mỗi vị 20g. Hai vị dùng tươi, rửa sạch, giã nát, đắp vào vết thương.

  1. Chữa hôi nách:

Thân rễ gừng gió 20g, long não 4g. Gừng gió phơi khô, tán thành bột mịn cùng với long não. Trộn đều, ngày 2 lần, xoa bột vào nách.

  1. Chữa trâu bò và voi ngựa bị dịch mùa hè, mắt đỏ, ăn không nuốt được:

Gừng gió, cốt khí tím, chỉ thiên, sắn dây, các vị bằng nhau, giã thật nhỏ, hoà với nước cho uống.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post