Ong Mật (Apis spp.)

Tên nước ngoài: Honey bee (Anh), abeille de miel (Pháp)
Họ: Ong mật (Apidae)

Mô tả:

Loài côn trùng cánh màng, có cơ thể trung bình dài 1 - 1,5cm, đít có nọc, hút mật ở các loài hoa để chế biến thành mật ong. Theo phân loại khoa học, ong mật thuộc chi Apis (chi phổ biến hơn cả) gồm 4 loài chính:

  1. Apis cerana Fabricius (ong mật, ong châu á) với 3 giống là Apis cerana indica, A.cerana japonica và A. cerana sinensis.

  2. Apis dorsata (ong khoái)

  3. Apis florea (ong ruồi)

  4. Apis mellifera (ong châu âu) với 3 giống chính là Apis mellifera ligustica, A.mellifera carnica và A.mellifera caucasia.

Theo kinh nghiệm dân gian, ong mật có nhiều loài. Ở miền bắc, có ong muỗi (cơ thể nhỏ) cho mật màu trắng và ong khoái (loại to) cho mật màu vàng. Ở miền nam, vùng rừng U Minh, có ong mật (loại to chiếm đa số) hút mật hoa tràm là chủ yếu, mật có màu vàng; ong ruồi nhỏ hơn, thân mình hơi dẹt, không giống con ong muỗi nuôi ở các tỉnh phía bắc, làm mật từ nhiều loài hoa, mật có màu vàng nâu, chất lượng tốt hơn.

Bộ phận dùng:

Nhiều sản phẩm của ong mật được sử dụng phổ biến

  • Mật ong: tên thuốc trong y học cổ truyền là bách hoa tinh, bách hoa cao hay phong mật, là mật hoa được ong chế biến và đặc lại. Đó là một chất lỏng sánh có màu trắng đục, vàng nhạt hoặc vàng thẫm, thơm đặc trưng của mùi mật ong, vị ngọt dịu, để lâu thành ngọt đậm, khé cổ, có đường kết tinh ở dưới gọi là châu. Mật ong được dụng là mật ong thiên nhiên nguyên chất, đã được tiêu chuẩn hoá để ổn định thành phần của mật và bảo quản được lâu. Một lít mật ong được dụng có trọng lượng trên 1,42 kg, còn một lít mật ong thu mua bình thường chỉ nặng 1,2 - 1,3 kg.

  • Sữa ong chúa (sữa chúa, phong nhũ tinh): là chất lỏng, sánh, màu trắng đục đến ngà vàng, có giá trị cao nhất trong tổ ong.

  • Sáp ong (phong lạp): có thể chất mềm, hơi trong, mịn bóng như có dầu mỡ, màu vàng là hoàng lạp, màu trắng là bạch lạp, có mùi thơm của mật ong và nhựa thông.

  • Keo ong (phong giao): là nhựa cả các loài cây (nhất là các chồi mầm) do con ong nghiền nát luyện với sáp mà thành, có màu nâu hoặc vàng sẫm.

  • Nọc ong: là sản phẩm đặc biệt của cơ thể con ong, đó là một chất lỏng rất sánh, không màu.

  • Phấn hoa: do con ong đi hút mật mang về với mục đích làm thức ăn nuôi ong con. Đó là những thỏi nhỏ hình thoi, dài 0,6 - 0,8 cm, hai đầu thuôn tù, màu vàng nhạt.

Cách thử mật ong để phát hiện thật, giả:

  1. Nhỏ vài giọt mật ong lên giấy thấm hoặc giấy bản, nếu là mật ong thật sẽ không có vết loang xung quanh giọt mật; ngược lại nếu vết loang nhanh và rộng là mật có pha trộn.

  2. Nhỏ một giọt mật ong vào cốc nước trong, nếu giọt mật rơi ngay xuống đáy cốc là mật ong thật.

  3. Lấy một phần mật ong hoà đều với năm phần nước lọc. Để yên. Mật ong nguyên chất phải có dung dịch trong suốt. Nếu bị pha trộn sẽ có cặn lắng dưới đáy dung dịch.

  4. Nhỏ vài giọt iod và mật ong, khuấy đều. Mật nguyên chất không biến màu. Nếu bị trộn nước cháo hay nước cơm, mật sẽ có màu xanh lơ, nếu có màu đỏ là mật có lẫn nước hàng.

Thành phần hoá học:

  • Mật ong chứa 0,4% protid, 80% đường chủ yếu là glucose, levulose (nếu tỷ lệ saccharose cao thì do ong được nuôi bằng đường trắng), 5,1mg % Ca, 7,2mg % P, 0,46mg % Fe, 2,9 mg %Mg, 0,004 mg % vitamin B1, 0,2 mg % PP, 0,02 mg % vitamin B6, 70 mcg % acid panthotenic, các men lipaza, galactaza, diastaza..., 100g mật ong cung cấp 335 calo. Mật ong có thể có chất độc, nếu ong hút mật ở những cây chứa độc tố.

  • Sữa ong chúa có acid amin, trong đó nhiều loại cơ thể không tổng hợp được, nhất là cystein, acid hữu cơ, vitamin (nhất là vitamin B2), đường (ít hơn), chất mỡ, các kích thích tố, một số enzym, muối khoáng.

  • Sáp ong chứa nhiều vitamin A, các acid béo no và không no, các chất cerin, myricin, cerolein. Cerin là hỗn hợp các chất ester cerotat ceryl và melissat ceryl. Cerolein gồm các hợp chất oleic.

  • Keo ong có 50 - 55% dầu nhựa, 8 - 10% tinh dầu, 30% hợp chất sáp, 5% phấn hoa.

  • Nọc ong chứa albumin mellitidin, chất béo, các chất có cấu tạo steroid, muối vô cơ và hơn 20 loại acid amin.

  • Phấn hoa ong mang về chứa 7 - 35% protein, 0,22% hydrat carbon, 10% acid amin tự do, 7,5 - 40% đường khử, 0,1 - 19% đường không khử, Ca, P, Fe, K, Mg, Zn,... 6 - 15 mg% vitamin C, 5 - 9 mg% vitamin P, khá nhiều vitamin nhóm B và các men invertaza, amylaza, phosphataza.

Tính vị, công năng:

  • Mật ong có vị ngọt, tính bình, không độc, vào 5 kinh tâm, phế, tỳ, vị và đại tràng, có tác dụng bổ dưỡng, dễ tiêu, kháng khuẩn, làm se.

  • Sữa ong chúa có vị ngọt, hơi chua, hơi khé cổ, có tác dụng bổ dưỡng cao, tăng trọng, kích thích và điều hoà.

  • Sáp ong có vị ngọt, hơi ấm, không độc, có tác dụng tiêu độc, làm se, cầm máu, chống loét.

  • Keo ong có vị nhạt, có tác dụng sát khuẩn, kích thích hệ miễn dịch, bảo vệ và phục hồi sự phát triển của da.

  • Nọc ong có vị đắng, có độc, có tác dụng giảm đau, chống viêm, bình suyễn, trừ thấp.

  • Phấn hoa ong mang về có vị nhạt, không độc, có tác dụng bổ dưỡng, tăng sức, có tác dụng kích thích tiêu hoá.

Công dụng:

Con ong góp phần duy trì chu kỳ sinh trưởng và phát triển của cây cối trong thiên nhiên. Từ thời thượng cổ, mật ong đã được công nhận là món ăn ngon, dễ tiêu hoá, có nhiều chất bổ và là một vị thuốc quý.

  • Thuốc bổ dưỡng: Đường trong mật ong làm mạnh các tế bào và bắp thịt, các vitamin tăng cường sức chống đỡ của cơ thể, chất albumin và acid panthotenic góp phần vào việc cấu tạo và hình thành các tế bào mới, các muối khoáng, đạm thực vật rất cần thiết cho người.

Hàng ngày, cho trẻ nhỏ uống 1 - 2 thìa cà phê mật ong trẻ sẽ chóng lớn, ít mắc bệnh. Những người muốn bồi bổ cơ thể, mới ốm dậy cần phục hồi sức khoẻ mau chóng, thường dùng mật ong đánh nhuyễn với trứng gà hoặc mật ong ngâm rau thai để ăn. Người bị lao dùng mỗi ngày 100 - 150g mật ong làm hồng cầu tăng nhanh, sức khoẻ chóng hồi phục. Mật ong phối hợp với cao kim anh với tỷ lệ 90% là mật ong và 10% cao là thuốc bổ thận, chữa bệnh suy nhược thần kinh, di mộng tinh. Mật ong - cao xương và mật ong - cao ban long (sản phẩm đã được sản xuất và lưu hành) lại được dùng cho cơ thể suy nhược của người già yếu, phụ nữ đang nuôi con, trẻ em chậm lớn.

Xí nghiệp liên hợp dược tỉnh Minh Hải đã nghiên cứu tận dụng nguồn mật ong sẵn có ở địa phương để sản xuất một mặt hàng độc đáo có tên 'Melium' làm thuốc bồi dưỡng hoặc chế biệt dược Melpython gồm mật ong và cao trăn để tăng cường gân cốt, chủ trị đau cột sống.

Đối với người cao tuổi, mật ong được coi như vị thuốc có khả năng kéo dài tuổi thọ. Những người sống trên 100 tuổi ở Liên Xô trước đây đa số là người chăn nuôi gia súc ở vùng núi cao và người làm nghề nuôi ong vì họ thường xuyên uống mật ong. Ở Trung Quốc có bài bổ ngũ tạng, ích khí huyết, làm đẹp da, mượt tóc gồm mật ong (15g), váng sữa (20g), gạo nếp (100g). Tất cả nấu thành cháo ăn trong ngày.

  • Thuốc kháng khuẩn: mật ong nguyên chất càng để lâu càng quánh đặc, không bị chua. Người ta đã phát hiện được mật ong để trong một kim tự tháp ở Ai Cập hơn 3000 năm mà không bị hư hỏng, biến chất, màu sắc và mùi vị vẫn thơm ngon. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh mật ong hay dung dịch chứa từ 30% mật ong trở lên là môi trường mà số đông các vi khuẩn và nấm không thể phát triển được. Điều đó giải thích rằng trẻ em đang bú mà bị tưa lưỡi (do một loại nấm), bôi mật ong vài lần là khỏi. Hoặc những vết loét ở miệng, lưỡi, lợi cũng bị đẩy lùi bởi dung dịch Miel - rosat gồm mật ong và bột hoa hồng đỏ (một loại thuốc cổ điển của y học hiện đại). Những vết thương, vết mổ được băng bó bằng mật ong sẽ chóng khô, sạch và không có mùi hôi, vì mật ong đã hút nước và vi khuẩn chống được sự lây lan. Giáo sư người Pháp Bernard Descottes, trưởng khoa phẫu thuật của bệnh viện Limoges (Pháp) đã chữa cho hơn 300 bệnh nhân bằng mật ong, kết quả là 95% vết thương đã khỏi nhanh chóng sau 8 - 10 ngày so với cách điều trị thông thường. Và một bác sĩ người Mỹ, Richard Knutson, cũng đã nói : 'Mật ong có khả năng chữa những vết thương khó trị'. Ở một bệnh viện tại Liên Xô trước đây, mật ong được bào chế dưới dạng thuốc mỡ để điều trị các loại vết thương do súng đạn. Một nhóm bác sĩ phẫu thuật Ấn Độ đã dùng mật ong để bảo quản da sống ghép còn thừa ở nhiệt độ bình thường.

  • Thuốc làm se: Các men trong mật ong đã tham gia vào quá trình tiêu hoá của cơ thể, chuyển đường đa và tinh bột thành đường đơn dễ hấp thu. Dùng mật ong đều đặn hàng ngày có tác dụng điều hoà hoạt động của ruột non và chữa được táo bón. Đặc biệt, mật ong được dùng khá phổ biến để chữa bệnh viêm loét dạ dày và tá tràng. Cuốn 'Chỉ bảo thư' của Eberas cách đây 3500 năm đã viết ' mật ong không những là môn thuốc bổ mà còn có khả năng chữa mau lành các vết loét'. Người ta thấy rằng mật ong làm giảm và đưa độ acid của dịch vị trở lại bình thường, nên làm dịu các cơn đau. Nó còn có tác dụng kháng khuẩn mạnh và với độ sánh đặc cao, đã bao che vết loét, làm chóng lành. Nhiều thí nghiệm thực tế đã chứng minh mật ong chữa viêm loét dạ dày - tá tràng tốt hơn so với các phương pháp khác, tỷ lệ khỏi bệnh tăng gấp rưỡi, nhất là bệnh viêm loét ở thời kì còn nhẹ, người bệnh chóng lên cân, độ chua của dịch vị mau trở lại mức bình thường.

Trong cao dạ cẩm (thuốc chữa viêm loét dạ dày - tá tràng), mật ong chiếm tỷ lệ 10%, góp phần quan trọng vào việc giảm đau và làm se vết loét. Mật ong phối hợp với nghệ vàng hoặc trứng gà càng làm tăng hiệu lực tác dụng và kết quả điều trị, vì nghệ cũng là vị thuốc mạnh dạ dày, giúp tiêu hoá; trứng gà có tác dụng bồi dưỡng, tăng cường thể lực (tác dụng chính của lecithin trong lòng đỏ trứng gà) và chống loét (do albumin và đặc biệt là vitamin U trong lòng trắng trứng). Cần chú ý là phải dùng mật ong kiên trì và liên tục, vì viêm loét dạ dày - tá tràng là một bệnh mạn tính. Thời gian điều trị kéo dài từ 2 đến 3 tháng hoặc hơn. Mỗi ngày dùng 2 - 3 lần, mỗi lần dùng 1 - 2 thìa, trước bữa ăn. Kiêng các chất cay, nóng.

Ngoài ra mật ong còn là một thành phần tá dược trong nhiều loại thuốc viên, thuốc tễ, thuốc ho trẻ em, rượu bổ với tác dụng làm ngọt, dễ uống. Mật ong (10g) hoà vào dịch một quả chanh và nước sôi để nguội, ngày uống 2 lần làm sỏi thận nhỏ dần và bài tiết ra ngoài (Kinh nghiệm của ông Tôn Thất Đảng - hội nuôi ong Đà Nẵng). Có quan niệm cho rằng mật ong rừng tốt hơn mật ong nuôi, vì mật ong rừng được tạo nên bởi mật của nhiều loài hoa nên thành phần rất phong phú, còn mật ong nuôi chỉ gồm mật của 1 - 2 loài hoa theo vụ, chưa kể là ong được nuôi bằng đường hoặc mật mía. Và cũng có người cho rằng mật ong dưới dạng thuốc tiêm chống histamin tốt hơn pipolphen và thiantan.

Mật ong và tép bưởi có tác dụng thanh nhiệt, giảm ho, tiêu đờm, nhuận phổi theo cách làm sau: Tép bưởi (500g) cho vào một ít rượu, ngâm một đêm. Sau đó đun nhỏ lửa cho bay hết rượu rồi trộn với mật ong (250g), ngày uống 2 lần, mỗi lần 10 - 20g. Mật ong trộn đều với nước ép cùi vải tươi (lượng mỗi thứ bằng nhau), đun sôi, để nguội, đựng trong lọ kín trong 30 - 40 ngày cho dung dịch đóng kết lại. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 - 2 thìa con vào lúc đói. Chữa da mặt khô, nháp, chống nếp nhăn (Tài liệu nước ngoài).

Những người bị bệnh đái đường, phát ban không dùng mật ong.

  • Sữa ong chúa được coi là loại thuốc bổ cao cấp, có tác dụng kích thích phần giữa của não, tuyến yên dưới não, và tuyến thượng thận, tăng cường tuần hoàn huyết dịch và điều hoà chức năng của các cơ quan trong cơ thể bị lão hoá, hoặc dùng cho người mới ốm dậy, người già yếu, trẻ em suy dinh dưỡng, phụ nữ sau khi sinh đẻ bị thiếu máu, ít sữa, kém ăn, mất ngủ. Thuốc còn có khả năng kiềm hãm một số vi khuẩn gây bệnh, giảm hiện tượng 'stress' ở người lao động quá mức và cải thiện hệ thống miễn dịch. Liều dùng thông thường hàng ngày là 2 - 3 ml. Viện Bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi đã thử nghiệm lâm sàng thuốc bổ 'sữa ong chúa - đinh lăng' thấy có tác dụng tốt làm ăn ngon, dễ ngủ, đỡ mệt mỏi, tăng cân, tăng lực cơ, giảm cholesterol. Thuốc gồm: sữa ong chúa, dịch chiết rễ đinh lăng, mật ong, cồn, và tá dược vừa đủ.

Sữa ong chúa còn được chế biến thành bột dạng đông khô và đóng thành viên, mỗi viên có 0,06g sữa ong chúa dùng để chữa một số bệnh thần kinh, rối loạn tiêu hoá, thiếu máu, đặc biệt đối với trẻ em và người cao tuổi. Để làm cho da dẻ mịn màng, chữa tàn nhang, trứng cá ở phụ nữ, viêm da có mủ, mụn nhọt và chàm nhẹ ở trẻ sơ sinh, có thể dùng dạng kem sữa ong chúa 3% để bôi hàng ngày.

Tuy là loại thuốc bồi bổ quý hiếm, nhưng sữa ong chúa lại cung cấp cho cơ thể lượng nhiệt năng rất lớn, nên khi dùng phải tuân thủ nghiêm ngặt liều lượng, thời gian điều trị, nhất là đối với người có bệnh cao huyết áp, bệnh về huyết quản. Người bị dị ứng với thuốc, bị bệnh hen, bệnh Addison do suy giảm về mặt nội tiết của vỏ thượng thận, phụ nữ đang hành kinh cũng không được dùng sữa ong chúa để tránh những phản ứng phụ không có lợi cho sức khoẻ.

Theo tài liệu nước ngoài, sữa ong chúa tương tự như hormon, có khả năng điều hoà kinh nguyệt và kích thích sinh dục trong một số trường hợp. Uống sữa ong chúa thấy bệnh trạng thuyên giảm rõ rệt ở người mắc bệnh liệt rung (Parkinson) và bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ. Còn đối với người bị liệt dương, sữa ong chúa làm khả năng sinh dục dần hồi phục.

  • Sáp ong: Những loại thuốc tễ, thuốc hoàn to và dẻo như quy toàn, hà xa đại tạo hoàn được bao bằng sáp ong để bảo quản được rất lâu, chất lượng vẫn được đảm bảo. Sáp ong tham gia vào thuốc dán, thuốc mỡ như một chất kết dính.

Sáp ong đốt thành than, tán nhỏ: chữa viêm họng, bí đại tiểu tiện; Sáp ong + thuyền thoái (xác ve sầu) chữa da khô nóng và ngứa ngáy; Tầng sáp + tóc rối + xác rắn lột, lượng bằng nhau, đốt tồn tính tán bột, uống ngày 4g với rượu chữa miệng lưỡi lở loét.

Theo kinh nghiệm dân gian: Sáp ong tán nhỏ uống với rượu hâm nóng chữa băng huyết, sáp ong và nhựa thông (lượng bằng nhau) nấu cho tan, bôi vào đầu ngón tay, ngón chân chữa chín mé. Ngoài ra, sáp ong với nha đảm tử còn có tác dụng chữa kiết lỵ có máu mủ, rong huyết; với phèn phi chữa ung nhọt.

  • Keo ong là thuốc diệt khuẩn tự nhiên, làm tăng tác dụng của một số thuốc kháng sinh và kích thích hệ miện dịch. Dầu keo ong gồm keo ong 40% tán nhỏ, trộn với dầu thực vật (dầu lạc hoặc vừng) 60%, đun nhỏ lửa cho tan keo, để nguội, được dùng chữa các thể chàm và một số bệnh ngoài da khác như mụn rộp, eczema... Keo ong cắt nhỏ cho vào 10% nước sôi để nguội, chưng cách thuỷ, khuấy đều bằng đũa tre cho tan keo. Ngày dùng 3 - 4 lần, mỗi lần 30 - 40 giọt để chữa bệnh đau dạ dày.

Rượu keo ong 10% và 30% được điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ với kết quả rất tốt. Rượu keo ong 40% dùng kéo dài liều 5 - 10ml hàng ngày lại có tác dụng ức chế khối u, ung thư tuyến tiền liệt.

Keo ong dùng dưới dạng xông hơi, viên ngậm để điều trị các bệnh đường hô hấp như cúm, viêm họng, viêm phế quản. Keo ong còn chữa chứng hôi hơi thở, bệnh aphte và có khả năng chống virus gây bệnh.

  • Nọc ong được dùng chữa thấp tim, viêm đa khớp, viêm dây thần kinh, hen suyễn, đau cột sống, cao huyết áp. Bằng phương pháp dùng ong đốt trực tiếp tại chỗ như hình thức châm cứu.

Đối với bệnh viêm dây thần kinh, cho ong đốt dọc theo đường đi của dây thần kinh bị viêm. Để chữa cao huyết áp, cho ong đốt vào vùng trên ngoài của chân, vùng trước dưới đùi hoặc vùng cổ tay.

Chữa hen phế quản, cho ong đốt dọc hai bên xương sống cách 2 cm.

Chữa đau khớp, đau lưng, cho ong đốt vào các đốt xương đau và dọc xương sống.

Chữa suy nhược thần kinh, cho ong đốt ở vùng vai, đỉnh đầu và dọc xương sống.

Nọc ong còn được chế biến thành nhiều dạng thuốc khác nhau như nhũ dịch, dầu bôi... để dùng.

Do nọc ong có tính độc, lại tuỳ thuộc lượng sử dụng và mức độ cảm thụ của cơ thể từng người, nên việc chữa bệnh bằng nọc ong phải hết sức thận trọng, nhất thiết phải theo sự hướng dẫn và theo dõi của thấy thuốc. Phụ nữ có thai, người bị bệnh lao, bệnh gan không được dùng nọc ong.

Theo tài liệu nước ngoài, nọc ong chữa được bệnh vô sinh ở phụ nữ rất hữu hiệu.

  • Phân hoa: do ong mang về được dùng làm thuốc bổ, tăng cường sức chống đỡ với bệnh tật, chữa suy dinh dưỡng dưới dạng nguyên bản của thỏi phấn được gọi là 'viên phấn hoa', được sấy khô ở nhiệt độ 40oC để diệt men và dùng ngay không cần chế biến. Hoặc trộn phấn hoa (25g) với mật ong (50g) thành dạng đặc biệt là lương ong để dùng trong một ngày.

Theo tài liệu nước ngoài, phấn hoa có tác dụng phòng và trị ung thư tuyến tiền liệt với lượng uống mỗi ngày 15g. Một bệnh nhân đái tháo đường sau khi uống liên tục một thời gian dài, mỗi ngày khoảng 4 thìa cà phê bột phấn hoa, đã khỏi bệnh. Phấn hoa (32g) phối hợp với sữa ong chúa (10mg) chia thành hai lần uống trong ngày chữa liệt dương.

Ngoài ra, ong non còn gọi là nhộng ong, có vị hơi ngọt, lạnh, không độc, đôi khi được dùng để sát khuẩn, chống tổn thương suy yếu nội tạng, ích khí, chống già, làm nhan sắc tươi trẻ, da dẻ mịn màng. Người dân ở tỉnh Bình Thuận rất thích ăn ong non dưới dạng sống hoặc tẩm bột và bơ rồi chiên vàng để làm thuốc bổ.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post