Ba Kích Tím - Morinda officinalis How

Tên khoa học: Morinda officinalis How
Tên khác: Ba kích thiên, dây ruột gà, chẩu phóng xì, thau tày cáy (Tày), chồi hoàng kim, sáy cáy (Thái), chày kiằng dòi (Dao).
Tên nước ngoài: Medicinal indian mulberry (Anh).
Họ: Cà phê (Rubiaceae).

Mô tả

Cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn, dài hàng mét. Rễ hình trụ, mập, vặn vẹo. Thân non màu tím, có lông, sau nhẵn. Cành non có cạnh. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, thuôn nhọn, dày và cứng, dài 6 - 14cm, rộng 2,5 - 6cm, cuống ngắn, lúc non có lông dày hơn ở mặt dưới, thường tập trung ở các gân và mép lá, màu xanh lục, sau già ít lông hơn và màu trắng mốc; lá kèm mỏng, ôm sát vào thân.

Cụm hoa mọc thành tán ở đầu cành, dài 0,3 - 1,5cm; hoa nhỏ, màu trắng sau hơi vàng; đài hình chén hay hình ống gồm những lá dài nhỏ phát triển không đều; tràng hàn liền ở phía dưới thành ống ngắn; nhị 4; bầu hạ.

Quả hình cầu, rời nhau hoặc dính liền thành khối, khi chín màu đỏ, mang dài tồn tại ở đỉnh.

Mùa hoa: tháng 5-6; mùa quả: tháng 7 -10.

Cây dễ nhầm lẫn

  • Do hình dáng của cây
  1. Ba kích lông - Morinda cochinchinensis Lour.

Cây có rễ gày và ít thịt. Lá to. Quả chính màu vàng. Toàn cây nhất là thân và lá phủ lông rất dày.

  1. Mặt quỷ - Morinda villosa Wall, ex Hook. f..

Cây có rễ nhỏ, cứng. Thân, lá nhẵn. Hoa và quả tụ.

Cây này rất dễ nhầm với loài ba kích quả tụ (Morinda sp.) (xem Mặt quỷ).

  1. Dây giang mủ - Zygostelma benthami Baillon var. lineare Cost - Asclepiadaceae.

Dây leo. Rễ có vỏ mỏng và cứng, lõi gỗ to. Lá không có lá kèm, có nhựa mủ trắng. Quả thuôn dài. Năm 1980, rễ cây này đã được thu mua ở một địa phương miền nói Tây Bắc, với tên "ba kích" và khối lượng là 2 tấn.

  • Do tên gọi, dây ruột gà còn chỉ một số cây khác;
  1. Sam trắng - Bacopa monnieri (L.) Pennell.

(Herpestis monnieri (L.) Rothm.)*Scrophulariaceae (xem Sam trắng).

  1. Mộc thông - Clematis chinensis Osbeck - Ranunculaceae.

Cây bụi. Lá kép gồm 5 lá chét có cuống dài. Hoa màu trắng mọc ở kẽ lá. Quả bế, hình trứng, dẹt, có vòi dài, nhiều lông.

Bộ phận dùng

Rễ ba kích thu hái vào mùa đông khi trời nắng ráo đào về, rửa sạch, phơi nắng 5-7 ngày cho khô hoặc đem đồ hoặc hấp độ 1/2 giờ rồi phơi hoặc sấy, khi gần khô dùng dùi gỗ đập nhẹ cho bẹp rồi phơi nắng tiếp cho thật khô, đem xông lưu huỳnh để chống mốc rồi lựa theo cỡ to nhỏ, cắt từng đoạn dài 15 - 20cm, bó từng bó nhỏ theo mỗi loại đựng vào bao tải hay bao vải, ngoài bọc thêm một lớp polyethylen dán kín, để nơi thoáng mát, khô ráo.

Dược liệu ba kích có vỏ ngoài màu nâu nhạt, có vân dọc, nhiều chỗ nứt để lộ ra lõi nhỏ bên trong. Thịt màu hồng hay tím, vị hơi ngọt.

Khi dùng, cần ủ mềm, bỏ lõi, thái mỏng, phơi khô hoặc tẩm rượu sao qua.

Có thể chế thành diêm ba kích hay chích ba kích.

Cách chế chích ba kích: lấy cam thảo (600g cho 1kg ba kích) giã dập, bỏ vào nồi cho nước sắc thành thang. Bỏ bã cho ba kích vào đun cho đến khi xốp mềm, rút lõi, phơi khô.

Cách chế diêm ba kích: trộn ba kích với nước muối (20g muối cho 1kg ba kích) cho vào chõ, đồ, rút lõi, rồi đem phơi đến khô.

Dược lý

Tác dụng tăng lực: bằng phương pháp chuột bơi thực hiện trên chuột nhắt trắng, ba kích với liều 5 - 10g/kg dùng liên tiếp 7 ngày trước lúc thí nghiệm, có tác dụng kéo dài thời gian chuột bơi.

Tác dụng chống độc: dừng phương pháp gây nhiễm độc cấp bằng cách tiêm ammoni clorur cho chuột nhắt trắng, ba kích với liều 15g/kg có tác dụng tăng sức chống đỡ của cơ thể với yếu tố độc hại.

Tác dụng chống viêm: trên mô hình gây phù chân chuột cống trắng bằng kaolin, ba kích dùng với liều 5- 10g/kg có tác dụng chống viêm rõ rệt.

Tác dụng trên hệ nội tiết: thí nghiệm trên chuột cống trắng đực chứng tỏ ba kích không có tác dụng giống androgen, nhưng có khả năng tăng cường hiệu lực của androgen.

Ngoài các tác dụng trên, nước sắc ba kích còn có tác dụng tăng cường co bóp ruột, hạ huyết áp. Độc tính cấp: trên chuột nhắt trắng bằng đường uống ba kích có LD50 bằng 193g/kg; chứng tỏ ba kích có độ độc rất thấp.

Công dụng

Ba kích có vị ngọt, hơi cay, tính ấm vào kinh thận. Có tác dụng ôn thận trợ dương, cường gân cốt, trừ phong thấp.

Trong nhân dân, ba kích được dùng phổ biến làm thuốc bổ, tăng lực. Qua điều trị thử nghiệm đạt kết quả sau: đối với nam giới có hoạt động sinh dục yếu, ba kích có tác dụng làm tăng khả năng giao hợp, đặc biệt đối với các trường hợp khả năng giao hợp yếu và thưa. Tuy không làm tăng đòi hỏi tính dục, nhưng ba kích có tác dụng tăng cường sức dẻo dai; không thấy có tác dụng giống androgen trên lâm sàng. Ba kích không làm thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện hoạt động sinh dục cũng như điều trị vô sinh cho những nam giới có trạng thái vô sinh tương đối nhẹ và suy nhược thể lực. Còn các trường hợp tinh dịch ít, tinh trùng chết nhiều, không có tinh trừng không xuất tinh khi giao hợp, sử dụng ba kích chưa thấy kết quả.

Đối với người cao tuổi, bệnh nhân thường có biểu hiện mệt mỏi, kém ăn ít ngủ, người gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý gây nên, một số trường hợp có đau mỏi các khớp, ba kích có tác dụng tăng lực rõ rệt thể hiện qua những cảm giác chủ quan như đỡ mệt mỏi, ngủ ngon, ăn ngon và những dấu hiệu khách quan như tăng cân, tăng cơ lực. Còn đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp, sau khi dùng ba kích dài ngày các triệu chứng đau mỏi giảm rõ rệt.

Theo tài liệu cổ, ba kích chữa dương ủy di tinh, phong thấp cước khí, gân cốt yếu mềm, lưng gối mỏi đau. Là một vị thuốc bổ trí não và tinh khí, ba kích còn chữa các bệnh liệt dương, xuất tinh sớm, di mộng tinh, phụ nữ kinh nguyệt không đều, bệnh phong thấp.

Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác. Liều dùng 5 - 12g/kg dưới dạng thuốc sắc hoặc cao lỏng.

Kiêng kỵ: đối với bệnh nhân âm hư hoả vượng, đại tiện táo kết không nên dùng ba kích

Next Post Previous Post