Bảy Lá Một Hoa (Paris polyphylla Smith)
Tên khác: Thất diệp nhất chi hoa, tảo hưu, cúa dô (H'Mông)
Tên đồng nghĩa: Daiswa polyphylla (Smith) Raf.
Tên nước ngoài: Parisette, Herbe - Paris (Pháp)
Họ: Bảy lá một hoa (Trilliaceae)
Mô tả:
Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,5 - 0,7m. Thân rễ mập, chia làm nhiều đốt, có những ngấn ngang và sẹo to. Thân thẳng đứng, cao đến 1m, không phân nhánh, màu lục hoặc màu hơi tím, giữa thân có một tầng lá mọc vòng từ 6 - 8 cái, thường là 7, lá hình trứng - bầu dục hoặc mác thuôn, dài 15 - 20 cm, rộng 8 - 10 cm, gốc tròn hoặc hình tim, đầu nhọn, mép nguyên, mặt dưới màu lục nhạt hoặc hơi tím đỏ; có 3 gân; cuống lá dài.
Hoa mọc đơn độc ở ngọn thân, cách tầng lá khoảng 15 - 30cm; lá đài hình mác màu lục nom như lá; cánh hình sợi màu vàng, bằng hoặc hơi ngắn hơn lá đài; nhị nhiều, mảnh, có bao phấn màu vàng nâu, bầu màu tím đỏ có 3 ô.
Quả mọng, màu tím đen; hạt to, màu vàng.
Mùa hoa: tháng 3 - 7; mùa quả: tháng 8 - 12.
Cây có công dụng tương tự:
Các loài cây khác như Paris delavayi Franch, P.fargesii Franch., P. hainanensis Merr.
Bộ phận dùng:
Thân rễ, thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu đông. Dùng tươi hoặc phơi khô.
Thành phần hoá học:
Thân rễ bảy lá một hoa chứa đường 7 - 9%, 2 glucosid là a - paristyphnin
Tác dụng dược lý:
Glucosid a - paristyphnin chiết từ bảy lá một hoa gây một cảm giác râm ran, và có tác dụng ức chế trên huyết áp động mạch cảnh, cơ tim và cử động hô hâp. Nó gây co mạch thận, nhưng lại gây giãn mạch lách và các chi và kích thích ruột cô lập động vật thí nghiệm. Những tác dụng này không bị atropin hoặc ergotoxin làm thay đổi.
Đã nghiên cứu hoạt tính chống đột biến của cao nước bảy lá một hoa thường được dùng trong y học cổ truyền Trung Quốc làm thuốc trị ung thư, bằng cách dùng hệ thống Salmonella/ tiểu thể với sự có mặt của acid picrolonic hoặc benzo (a) pyren để kiểm tra xem dược liệu này có chứa những chất chống đột biến trực tiếp hoặc gián tiếp hay không.
Chiết cao thô bảy lá một hoa với nước đun sôi trong 2 giờ, là phương pháp thường được dùng trong y học cổ truyền Trung Quốc để bào chế thuốc sắc uống. Đã nhận xét thấy cao nước bảy lá một hoa có tác dụng chống đột biến ở mức vừa đối với sự đột biến gây bởi acid picrolonic. Bảy lá một hoa chứa những yếu tố chống đột biến đối với cả sự đột biến gây bởi acid picrolonic và benzo (a) pyren.
Bảy lá một hoa có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loài vi khuẩn gây bệnh và có hoạt tính chống ung thư đối với những khối u thực nghiệm. Đã phân lập từ thân rễ một số glucosid steroid, được coi là chịu trách nhiệm chính về những hoạt tính sinh học này. Những glucosid steroid chủ yếu là glucosid của diosgenin và pennogenin, được chứng minh có tác dụng cầm máu cũng như tác dụng làm tăng lực co cơ của tim ếch cô lập.
Thân rễ của P.polyphylla và P.fagessi thu hái ở một số địa phương của Trung Quốc, được thử nghiệm về tác dụng trên những tế bào cơ tim được nuôi cấy. Trong môi trường nuôi cấy tiêu chuẩn, 8 cao chiết với methanol với nồng độ 0,2mg/ml đã làm ngừng sự đập tự phát của những khối tế bào cơ tim, nhưng những cao này làm tăng có ý nghĩa nhịp đập khi giảm nồng độ xuống một nửa.
Trong môi trường nuôi cấy có nồng độ calci thấp, 0,5 mM, nhịp đập của những tế bào cơ tim giảm xuống khoảng 60% nhịp đập của đối chứng trong môi trường tiêu chuẩn. Việc cho thêm 5 cao chiết vào môi trường có nồng độ calci thấp với nồng dộ 0,1mg/ml gây ngừng sự dập của tế bào, nhưng những cao khác làm tăng nhịp đập ít nhất 10%.
Tính vị, công năng:
Thân rễ bảy lá một hoa còn gọi là tảo hưu, có vị đắng, hơi cay, tím hơi lạnh, hơi độc, vào kinh can, có tác dụng xổ hạ, lợi tiểu, tiêu đờm, thanh nhiệt, giải độc.
Công dụng:
Bảy lá một hoa chữa sốt, sốt rét cơn, kinh giản, giải độc, nhất là khi bị rắn độc cắn, chữa mụn nhọt, viêm tuyến vú, sốt rét, ho lao, ho lâu ngày, hen suyễn.
Liều dùng: ngày 4 - 12g thân rễ dưới dạng sắc uống.
Dùng ngoài với tác dụng sát trùng, tiêu sưn, giã thân rễ đắp lên những nơi sưng đau, vết rắn cắn, tràng nhạc, mụn lở, nhọt.
Thuốc dùng ngoài không kể liều lượng.
Kiêng kỵ: người hư hàn cấm dùng.
Ở Trung Quốc, vị thuốc tảo hưu được chế biến từ thân rễ nhiều loài cây thuộc chi Paris mọc ở những tính miền Tây Nam Trung Quốc đã được dùng chủ yếu làm thuốc chữa sốt, giải đọc và chữa ho.
Ở Ấn Độ và Nê Pan, thân rễ bảy lá một hoa trị giun sán bằng cách uống bột thân rễ mỗi lần một thìa cà phê, ngày một lần, liều trong hai ngày. Để trị mụn nhọt và nhọt độc, hàng ngày bôi bột nhão chế từ thân rễ bảy lá một hoa một cách đều đặn.
Bài thuốc có bảy lá một hoa:
- Chữa trẻ em kinh sài, tay chân co giật:
Thân rễ bảy lá một hoa, sấy khô tán bột, uống mỗi lần 0,5 - 1g, ngày 4 - 5 lần.
- Chữa trẻ em sốt cao co giật, hoặc quai bị, lên sởi và các chứng sưng viêm phát sốt:
Thân rễ bảy lá một hoa 4g, thiên hoa phấn 8g, bạc hà 12g. Sắc uống.
- Chữa rắn độc cắn, nhọt ở vú, viêm phổi:
Thân rễ bảy lá một hoa 4 - 20g. Sắc uống.
- Chữa hen suyễn, ung thư phổi:
Thân rễ bảy lá một hoa 4 - 20g phối hợp với các vị thuốc khác.
- Chữa lòi dom:
Thân rễ bảy lá một hoa mài với dấm bôi rồi đẩy vào.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam