Bèo Cái (Pistia stratiotes L.)

Tên khác: Bèo ván, bèo tai tượng, bèo tía, đại phù bình.
Tên nước ngoài: Tropical duckweed, water lettuce (Anh).
Họ: Ráy (Araceae).

Mô tả:

Cây thảo, không có thân. Rễ chùm chìm ngập trong nước. Lá mọc từ rễ thành hình hoa thị, gốc lá thuôn hẹp thành bẹ, đầu lá tròn loe rộng, mặt trên nhẵn sẫm màu, mặt dưới có lông mịn, màu trắng xám hoặc đỏ tía; gân lá xếp hình quạt.

Cụm hoa là một mo hình lá, màu trắng nhạt gồm phần ống hình trứng và phần phiến hình trái xoan nhọn, mặt trong nhẵn, mặt ngoài có lông, trục hoa ngắn, 2 - 8 hoa đực ở trên, một hoa cái ở dưới; hoa trần; hoa đực có hai nhị ngắn dính nhau, bao phấn có hai ô, hoa cái có bầu hình trứng chứa nhiều noãn.

Quả mọng, hình trứng, có nhiều hạt.

Mùa hoa quả: tháng 5-10.

Bộ phận dùng:

Toàn cây, chủ yếu là lá. Thứ có mặt dưới lá màu tía thì tốt hơn.

Thành phần hóa học:

Lá và thân bèo cái chứa protein 1,4%, chất béo 0,3%, carbohydrat 2,6%, calci (CaO) 0,2%, phosphor (P2O5) 0,06%, protein dễ tiêu 1,2%. Ngoài ra còn có nhiều vitamin A, C. Tro chứa nhiều clorua kali và sulfat kali (The Wealth of India VIII, 1969).

Bèo cái còn chứa sitosterol - 3 - 0 - [2', 4' - 0 - diacetyl 6' - stearyl] - β - D glucopyranosid, sitosterol - 3 - 0 - [2' - 0 - staeryl] - β - D - xylopyranosid và sitosterol - 3 - 0 - (4' - 0 - stearyl) - β - D - xylopyranosid (Della Greca Marina và cs 1991). Ngoài ra còn thấy có stratiosid II (Della Greca Marina và cs, 1996).

Theo Ling Yun và cs, 1999, bèo cái chứa stigmasta - 4, 22 - dien - 3 - on, stigmasterol, stigmasteryl stearat và acid palmitic.

Tác dụng dược lý:

Bèo cái có tác dụng kháng khuẩn dối với một số chùng vi khuẩn gây bệnh trong thử nghiêm in vitro. Nước sắc bèo cái (sắc 3 nước trong 30, 60 90 phút rồi cô lại đến nồng độ (1: 1) được cho chuột cống trắng uống với liều (quy ra dược liệu khô): 20g/kg thể trọng. Đo thể tích nước tiểu trong thời gian 5 giờ sau khi cho uống thuốc, thấy thể tích nước tiểu ở lô chuột uống thuốc sắc bèo cái tăng và bằng 1,4 lần so với lô đối chứng. Hàm lượng ion kali trong mẫu nước sắc bèo cái 1:1 thử nghiệm là 323 mEq/lit. Hoạt tính lợi tiểu của bèo cái có một phần do tác dụng của kali, nhưng chủ yếu do các thành phần khác.

Đã áp dụng bài thuốc VT1 có bèo cái phối hợp với ba vị thuốc khác dưới dạng nước sắc hoặc cao nước chế thành Sirô, trong điều trị viêm cầu thận cấp cho hai nhóm bệnh nhi. Trong nhóm I có 37 bệnh nhi, sau 4 - 10 ngày hết phù, sau 7-14 ngày, protein niệu còn vết, urê máu trở lại bình thường. Thời gian điểu trị trung bình 34,5 ngày; tất cả 100% bệnh nhi đều ổn định, ngay cả khi kiểm tra lại sau 3 tháng.

Trong nhóm II có 43 bệnh nhi, thuốc có tác dụng làm tăng bài tiết nước tiếu ngay ở ngày thứ nhất sau khi uống thuốc, lượng nước tiểu tăng nhiều sau 3 ngày, sau 7 ngày ổn định ở mức bình thường. Phù và cân nặng bắt đầu giảm ngay sau 1 ngày và phù giảm nhanh sau 3 ngày, sau 7 ngày bệnh nhân hết phù. Bệnh nhân hết sốt trong 3 ngày đầu. Urê máu giảm xuống dẫn đến mức bình thường sau 3 - 7 ngày. Xét nghiệm nước tiểu cho thấy protein, hồng cầu và bạch cầu giảm dần tuần thứ nhất và thứ hai. trong vòng 3 - 5 tuần thì hết hẳn, 100% bệnh nhi đều khỏe

Trong nhóm III có 10 bệnh nhi có hội chứng thận hư được điều trị với bài thuốc VT1, phối hợp với hai bài thuốc cổ truyền khác. Phù đỡ nhiều hoặc giảm hoàn toàn sau 1 - 3 tuần điều trị. Protein niệu giảm nhưng không ổn định khi có viêm nhiễm kết hợp (viêm họng, cảm cúm), và phù lại tăng lên Khi đó phải dùng thuốc corticoid kết hợp với bài thuốc VT1 thỉ kết quả sẽ tốt hơn. Số ngày điều trị trung bình là 96 ngày, 90% bệnh nhi đã có kết quả ổn định hết phù, protein niệu âm tính. Kiếm tra lại sau 1 - 3 tháng, thấy không phù hoặc phù ít, nhưng lại bắt đầu có protein niệu dương tính (ít hoặc dưới 4g/lit).

Tính vị, công năng:

Bèo cái có vị nhạt, hơi cay, ngứa, tính mát, có tác dụng phát hãn, làm ra mồ hôi, trừ phong nhiệt, tiêu độc, lợi tiểu, tiêu thũng.

Công dụng:

Bèo cái là vị thuốc còn được dùng trong phạm vi nhân dân để chữa ngoại cảm phong nhiệt, sốt không ra mồ hôi, mẩn ngứa, mày đay, đơn độc sưng tấy, phù thủng, ho, hen suyễn, khát nhiều. Bèo cái tươi (50 - 100g) hoặc khô (6 - 8 g), sắc lấy nước uống lúc thuốc còn ấm, có thể dùng để xông. Người tự ra mồ hôi nhiều không nên dùng. Bèo cái cũng được dùng ngoài dưới dạng nước sắc để rửa mụn nhọt, chỗ mẩn ngứa, hoặc rửa sạch, giã với ít muối để đắp.

Theo tài liệu Ấn Độ, trong y học dân gian, ngươi ta dùng cả cây, đặc biệt là lá. Bèo cái được coi là có tác dụng sát trùng, chống lao và chống lỵ, làm thuốc rửa mắt để giảm đau. Dịch ép cây chữa đau tai, dùng tro cửa cây để chữa bệnh nấm đa đầu. Lá bèo cái chữa chàm, phong hủi, loét, trĩ và giang mai. Bèo cái với nước hoa hồng và đường trị ho và hen. Lá bèo cái còn được coi là có tác dụng trị giun. Dịch ép lá bèo cái đun sôi với dầu dừa đổ dùng ngoài trong điều trị bệnh da mạn tính, Ngoài công dụng làm thuốc, bèo cái còn được dùng phối hợp với xà phòng để tẩy các vết bẩn trên vải, quẩn áo, chai lọ, nồi có dầu mỡ.

Bài thuốc có bèo cái:

  1. Chữa chàm (eczêma):

Lượng bèo cái dùng tùy theo vùng da bị chàm to hay nhỏ, rửa sạch bằng nước thường 3 - 4 lần, thêm ít muối giã nát, đắp lên chỗ bị chàm. Thường chỉ đắp một hai lần, chỗ bị chàm không chảy nước nữa và sau khi điều trị trong vòng 7-10 ngày là khỏi hẳn. Đồng thời với việc đắp ngoài, có thể uống những thang thuốc giải độc có hoa kim ngân, bồ công anh, v. v..

  1. Chữa mẩn ngứa:

Bèo cái (50g) rửa sạch, sao vàng, sắc với nước uống trong ngày, dùng 2 - 3 ngày.

  1. Chữa hen:

Bèo cái (100g) cắt bỏ rễ, và lá vàng, rửa nước nhiều lần cho thật sạch, cuối cùng rửa bằng nước muối. Để ráo nước, giã nhỏ vắt lấy nước, thêm nước lọc và sirô chanh cho vừa ngọt và đủ 100ml, uống làm một lần. Ngày hai lần. Thường sau khi uống 10 ngày, cơn hen suyễn đã bớt, uống tiếp tục trong vòng hai tháng, có khi tới 3 tháng. Khi mới uống có thể thấy ngứa họng trong vòng 10 phút, nhưng sau quen dần và hết ngứa.

  1. Chữa herpes loang vòng:

Rửa sạch nơi bị mụn rộp bằng nước sắc bèo cái, rắc lên đó bèo cái đã đốt thành tro

  1. Chữa phong nhiệt, đầu mặt sưng ngứa, đau mắt, khắp mình nổi mẩn ngứa, hoặc sưng phù:

Bèo cái (bỏ rễ), bạc hà, kinh giới (mỗi thứ 30g), sắc uống và xông rửa.

  1. Chữa đơn độc mới phát, lang ngứa do mồ hôi ứ đọng, hay trẻ em lòi dom:

Lá bèo cái nấu nước xông rửa, và giã lá đắp chỗ đau (Nam dược thần hiệu). (Đơn độc: trên da xuất hiện những mảng màu đỏ hồng sáng bóng, hơi cao hơn mặt da, sờ vào thấy cứng nóng, vùng lân cận phát lạnh).

  1. Chữa phù thũng mới phát (dượng thuỷ: phủ nhẹ toàn thân ấn không lõm):

Bèo cái một nắm sắc uống (Nam dược thần hiệu).

  1. Chữa mày đay thể nhiệt:

Triệu chứng: da đỏ, các nốt ban đỏ, nóng rát, miệng khát, phiền táo; khi gặp gió, nóng, bệnh phát ra hoặc tảng thêm; mạch phù sác, lưỡi đò, có rêu vàng hoặc trắng. Phương pháp chữa: khu phong, thanh nhiệt lương huyết. Có 2 bài thuốc:

a. Bèo cái (8g), kim ngân hoa (16g), ké đầu ngựa (16g), kinh giới (16g), lá dâu (16g), thổ phục linh (16g), xa tiền (16g), bồ công anh (12g), sinh địa (12g), thuyền thoái (6g). sắc uống.

b Bèo cái (8g), kim ngân hoa (16g), ké đẩu ngựa (16g), liên kiều (12g), ngưu bàng tử (12g), lô căn (12g), trúc diệp (12g), kinh giới (12g), bạc hà (12g), xa tiền tử (12g), cam thảo (4g). Sắc uống.

  1. Chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ, giảm trí nhớ, di tinh:

Bèo cái, sâm voi, cám gạo, vừng đen (mỗi vị 1000g) mật ong vừa đủ.

Bèo rửa sạch, cắt bỏ rễ phơi khô. Sâm voi cạo bỏ vò ngoài, thái mỏng phơi khô tẩm nước gừng sao vàng. Vừng đen sao qua, cám tốt giã, rây kỹ, rim nước hơi ướt sao vàng. Các vị táo nhỏ luyện mật làm thành hoàn 12g. Mỗi lần uống một hoàn; ngày 3 lần, mỗi đợt điều trị 15 ngày.

  1. Chữa viêm cầu thận cấp:

Bèo cái (10g), ngải diệp (12g), ích mẫu (l0g). mao căn (10g). sắc uống hoặc pha chế sirô từ cao nước.

  1. Chữa viêm cầu thận cấp, có mụn nhọt, chốc lở kết hợp:

Dùng bài thuốc số 10 nêu trên, gia thêm bồ công anh, kim ngân hoa, sài đất, Sinh địa, huyền sâm

  1. Chữa Viêm cầu thận cập, có tăng huyết áp hợp:

Dùng bài thuốc số 10 nêu trên, gia thêm hoa hoè, hạ khô thảo.

  1. Chữa hôi chứng thận hư:

Bèo cái (10g), ngải diệp (16g), mao căn (12g), ích mẫu (10g) sắc uống.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post