Cây Cứt Lợn (Ageratum conyzoides L.)

Tên khác: Hoa ngũ sắc, cỏ hôi, bù xích, thắng hồng kế, cỏ cứt heo, nhờ hất bồ (K'ho), nhả mẩn, nhả bioóc khao (Tày), nhất meng (K'dong).
Tên nước ngoài: White weed, goat weed, appa grass, conyzoid floss flower, bastard agrimony (Anh); agérate conyzoi de (Pháp).
Họ: Cúc (Asteraceae).

Mô tả:

Cây thảo, sống hằng năm, cao chừng 25 - 50cm; phân cành nhiều. Thân có lông mềm, màu lục hoặc tím đỏ. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc tam giác, đầu nhọn, dài 2 - 10 cm, rộng 0,5 5 cm, mép có răng tròn, mặt dưới rất nhạt, 3 gân toả từ gốc lá, hai mặt lá đều có lông mịn, vò lá có mùi đặc biệt.

Cụm hoa hình đầu xếp thành ngù ở ngọn thân hoặc đầu cành; cuống cụm hoa có lông mềm; tổng bao hình đầu gồm những lá bắc xếp thành hai dãy; đầu nhỏ chứa toàn hoa hình ống bé và đều nhau; tràng ngắn có 5 thuỳ tam giác, màu lam nhạt, tím hoặc trắng; nhị 5.

Quả bế, màu đen, có 5 sống dọc.

Mùa hoa quả gần như quanh năm.

Cây dễ nhầm lẫn: trong dân gian, nhiều cây mang tên cứt lợn:

  • Anisomeles avata R.Br., họ bạc hà (Lamiaceae)

  • Lantana camara L., họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae)

  • Siegesbeckia orientalis L., họ Cúc (Asteraceae)

Bộ phận dùng:

Toàn cây, lá và rễ.

Thành phần hoá học:

Tinh dầu: có 51 thành phần, trong đó có 13 chất monoterpen hydrocarbon (5%). 7 chất monoterpen có oxy (1,4%). 16 chất sesquiterpen hydrocarbon (4,3%), 4 chất sesquiterpen có oxy (0,8%), 3 chất phenylpropanoid và benzenoid (2,33%), 6 chất chromen (85,2%), 2 chất chroman (0,9%).

Các dẫn chất chromen bao gồm 7-methoxy-2, 2-dimethylchromen (precocen I) và ageratochromen (precocen II). Tinh dầu cây cứt lợn chứa nhiều precocen I (vào khoảng 80%) và ít precocen II (dưới 1%). Hàm lượng precocen trong tinh dầu lá cao nhất vào lúc cây ra hoa và có ít ở thân và rễ.

Flavonoid Alcaloid thuộc nhóm pyrolizidin: 9-angeloylretronecin, lycopsamin

Các hợp chất khác: Friedelin, b - sitosterol, stigmasterol, stigmast - 7 - en - 3 - ol, a - spinasterol.

Cây cứt lợn Việt Nam chứa tinh dầu (0,7 - 2 %), corotenoid, phytosterol (ít), tanin (ít) đường khử (ít), saponin, hợp chất uronic. Hàm lượng saponin thô trong thân và lá (tính theo dược liệu khô kiệt) là 4,7%. Tinh dầu cây cứt lợn hơi sánh đặc, màu vàng nhạt đến vàng nghệ, mùi thơm dễ chịu. Chỉ số acid 4,5, chỉ số ester 252 - 254, aD từ - 3°8 đến - 5°3. Thành phần bao gồm agetatochromen, 6 - demethoxyagerarochromen và b - caryophylen chiếm 77% trong các thành phần trong tinh dầu.

Tác dụng dược lý:

Tác dụng chống viêm rõ rệt đối với giai đoạn cấp tính và bán cấp tính của phản ứng viêm thực nghiệm. Cây cứt lợn có tác dụng giảm phù thực nghiệm chân chuột, giảm rỉ dịch màng phổi và giảm u hạt thực nghiệm trên chuột cống trắng.

Tác dụng gay teo tuyến ức chuột cống non một cách rõ rệt, tác dụng chống choáng phản vệ và đối với tác dụng gây co bóp ruột cô lập của histamin trên chuột lang. Những kết quả thí nghiệm này chứng tỏ cây cứt lợn có tác dụng ức chế miễn dịch và kháng histamin.

Với nồng độ thấp, cây cứt lợn có tác dụng gây giãn mạch ngoại biên. Nồng độ cao có tác dụng co mạch nhẹ.

Liều chết 50 (LD50) của cây cứt lợn, xác định bằng đường uống trên chuột nhắt trắng là 82g/kg thể trọng.

Cao lỏng với tỷ lệ so với dược liệu 3/1 cho tiếp xúc với da và niêm mạc mỗi ngày một lần trong 7 ngày liền, không gây tổn thương viêm ở da và niêm mạc.

Thử độc tính bán mạn trên thỏ được uống 5g/kg thể trọng trong 30 ngày liền, không thấy có biến đổi bất thường về các chỉ số urê máu, men transaminase trong máu, protein huyết thanh, xét nghiệm tổ chức học gan, thận và thượng thận.

Chỉ số tan huyết của cây cứt lợn là 20, tương đối thấp và gần tương đương với chỉ số tan huyết của tam thất.

Công dụng:

Khoa tai mũi họng Bệnh viện Phú Thọ (1973) đã áp dụng cây cứt lợn chữa viêm xoang dị ứng có hiệu quả tốt.

Khoa tai mũi họng Bệnh viện Việt Nam - Cu Ba và Phòng khám tai mũi họng Bệnh viện Hai Bà Trưng (Hà Nội) đã áp dụng các chế phẩm của cây cứt lợn để điều trị các chứng bệnh viêm mũi xoang và có nhận xét như sau

  • Tác dụng tốt trong điều trị viêm mũi xoang mạn và viêm mũi xoang dị ứng. Tác dụng kéo dài, làm giảm ngạt mũi, giảm viêm, giảm tiết dịch, giảm hắt hơi và sổ mũi nhức đầu. Trong điều trị viêm mũi xoang dị ứng, các chế phẩm này có khả năng thay thế cortison.

  • Tác dụng kém đối với viêm mũi và viêm xoang có mủ đặc, kể cả cấp và mạn tính.

  • Không gây tác dụng phụ gì đối với cơ thể người bệnh, trừ tác dụng gây sót trong thời gian ngắn khi nhỏ mũi.

Nhân dân thường dùng cây cứt lợn làm thuốc chữa bệnh phụ nữ bị rong huyết sau khi sinh nở. Hái chừng 30 - 50g cây tươi đem về rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước và uống trong ngày, dùng 3 - 4 ngày. Còn phối hợp với bồ kết nấu nước gội đầu vừa thơm vừa sạch gầu, trơn tóc.

Lá cứt lợn làm thuốc đắp chữa vết thương phần mềm.

Theo tài liệu nước ngoài, ở Ấn Độ, lá cây cứt lượn được dùng làm thuốc chữa vết chém, vết đứt, vết thương và lở loét. Trong y học dân gian Nêpan, nước rễ cây cứt lợn dùng chữa bệnh sỏi thận. Lá dùng làm săn da, áp dụng chữa vết chem, vết đứt và lở loét.

Bài thuốc có cây cứt lợn:

  1. Chữa phụ nữ rong kinh sau sinh:

Lấ hoa tươi cây cứt lợn (30 - 50g) giã nhỏ, thêm nước, vắt lấy nước cốt uống.

  1. Chữa viêm xoang dị ứng hay viêm tai:

Lá, hoa tươi vắt lấy nước cốt, tẩm bông bôi vào mũi bên đau, hoặc ngoáy trong lỗ tai đau.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post