Trám Trắng (Canarium album (Lour.) Reausch.)

Tên khác: Cà na, thanh quả, mác cơm, cây bùi, cảm lãm.
Tên đồng nghĩa: Pimela alba Lour.
Tên nước ngoài: White canari tree, almond tree (Anh); canari commun, cacarium de Couchinchine (Pháp).
Họ: Trám (Burseraceae).

Mô tả:

Cây to, cao 20m hoặc hơn. Cành non màu nâu nhạt, có lông mềm. Lá kép lông chim, mọc so le, dài 35 - 40 cm, gồm 7 - 11 lá chét, mặt trên màu xanh nhạt bóng, mặt dưới có lông ánh bạc; những lá gần gốc có đầu ngắn, những lá ở giữa dài hơn, có đầu thuôn dài, lá tận cùng hình bầu dục, gân lá hơi rõ; lá kèm có lông mềm, màu nâu nhạt.

Cụm hoa mọc ở ngọn thành chùm kép, dài 8 - 10 cm; lá bắc hình vảy; hoa mọc thưa, thường tụ họp 2 - 3 cái ở một mấu; đài có lông, 3 răng; tràng hình bầu dục, có 3 cánh hơi dài hơn lá đài, phủ lông ngắn ở mặt ngoài; nhị 6, chỉ nhị ngắn; bầu hình trứng, có lông màu nâu.

Quả hạch, hình trứng, nhọn ở đầu, khi chín màu vàng nhạt; hạt cứng nhẵn có vỏ dày.

Mùa hoa: tháng 5 - 6; mùa quả: tháng 8 - 9.

Bộ phận dùng:

Rễ lá, thu hái quanh năm.

Quả hái khi chín, dùng tươi hay muối, rồi phơi, sấy khô.

Nhựa cây còn được khai thác làm hương và cất tinh dầu hay chế colophan.

Thành phần hoá học:

Quả trám có protein 12%, lipid 1,09%, hydrat carbon 12%, Ca 0,024%, P 0,046%, F 0,004% và phosphor 0,06%.

Dầu hạt chứa các acid hexanoic, caproic, octanic, decanoic, lauric, myristic, stearic, palmatic và linoleic.

Tamai Masaharu; Watanate Naoharu đã chiết được 7 hợp chất triterpeic, trong đó có 2 chất mới được xác định cấu trúc là urs - 12 en - 3a - 16b diol và olean - 12 en - 3a - 16b diol.

Ito Maymumi, Shimura Hiroghi cũng đã tách được các chất có tác dụng bảo vệ gan từ trám là brevifolin, hyperin acid ellargic và 3, 3' dimethyl ellargic. Các chất này có tác dụng làm giảm bớt sự phá hoại gây bởi tetrachlorur carbon.

Tác dụng dược lý:

Hai chất triterpen chiết từ quả trám trắng được xác định có tác dụng bảo vệ gan trong phương pháp nuôi cấy tế bào gan cô lập của chuột cống trắng đực được gây ngộ độc bằng D - galactosamin. Cụ thể là phân lập tế bào gan chuột cống trắng rồi nuôi cấy. Nếu thêm D - galactosamin vào môi trường nuôi cấy, tỷ lệ tế bào gan chết tăng lên. Xác định tế bào chết bằng cách sau một thời gian nuôi cấy, thêm dung dịch xanh Trypan vào, rồi soi lên kính hiển vi. Những tế bào sống không bắt màu xanh. Những tế bào chết thì màng tế bào không có khả năng bảo vệ chống lại sự xâm nhập của chất màu, nên tế bào có màu xanh. Thuốc nghiên cứu làm giảm số tế bào chết.

Tính vị, công năng:

Quả trám có vị chua, ngọt, bùi, béo, tính ấm, vào kinh phế, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu khát, sinh tân, thanh giọng, giải độc rượu và cá độc.

Công dụng:

Trám trắng được dùng chữa sưng hầu, sưng amidan, ho nhiều đờm, viêm ruột, lỵ, tiêu chảy, khát nước. Quả tươi màu xanh để giải độc rượu, chữa ngộ độc do cá độc, con dải. Quả chín có tác dụng an thần, chữa động kinh. Ngày 6 - 12g sắc uống.

Nhân hạt trám trị giun và hóc xương. Vỏ thân cây trị dị ứng sơn, đau nhức răng. Nhựa trám trắng được cất lấy tinh dầu dùng trong kỹ nghệ nước hoa, colophan còn lại dùng trong kỹ nghệ xà phòng, vecni. Nhân dân còn dùng nhựa trám trộn với thân cây đậu tương làm hương thắp.

Về mặt thực phẩm, quả trám trắng chín còn tươi, đổ nước sôi vào, ủ 10 - 15 phút rồi ăn, hoặc kho với thịt, cá.

Bài thuốc có trám trắng:

  1. Chữa đau họng, sưng amidan, ho, miệng khô, khát nước:

Lấy 500g quả trám trắng tươi, rửa sạch, đập lấy cùi, bỏ hạt, nấu với nước 2 - 3 lần. Lọc rồi cô còn hơn 250ml. Thêm vào 125g đường kính hoặc phèn chua. Cô còn 250ml. Uống mỗi lần 2 - 5ml. Ngày 2 - 3 lần.

  1. Chữa lỵ:

Quả trám trắng tươi để cả hạt 90g, sắc với 200ml nước, còn 90ml, chia làm 3 lần uống trong ngày.

  1. Chữa viêm tắc mạch:

Quả trám trắng 200g, luộc kỹ ăn và uống cả nước. Ăn liền 50 ngày (Lương y Lê Trần Đức).

  1. Chữa hóc xương cá:
  • Hạt quả trám trắng, đốt tồn tính, tán bột, phối hợp với bột rễ cây đậu ván trắng, uống dần mỗi lần 4 - 6g.

  • Trám trắng 5 quả, sắc lấy nước đặc ngậm và nuốt dần, hoặc lấy thịt quả, giã giập, ép lấy nước uống. Có thể kết hợp với lá hẹ giã nát, trộn với lòng trắng trứng đắp ngoài da chỗ xương hóc.

  1. Chữa đau răng, sâu răng:
  • Quả trám trắng đốt thành than, tán bột mịn, trộn với ít xạ hương, rồi bôi và xỉa vào chỗ đau.

  • Vỏ thân cây trám trắng, cạo bỏ lớp vỏ đen bên ngoài, thái mỏng, phơi khô, sắc lấy nước ngậm khoảng 10 phút rồi nhổ đi. Ngày làm nhiều lần. Có thể phối hợp với rễ cà dại, rễ chanh, vỏ cây lai hoặc trẩu, lượng mỗi vị bằng nhau, sắc đặc, ngậm như trên.

  1. Chữa lở sưng:

Vỏ cây, chặt nhỏ, nấu nước tắm.

  1. Chữa nứt nẻ kẽ chân, gót chân khi trời rét:

Hạt trám trắng đốt thành than, tán nhỏ, rây, trộn với dầu thực vật, bôi hàng ngày.

  1. Chữa tràng nhạc:

Hạt trám, hạt gấc và vỏ quả mướp đắng, đốt thành than, lượng bằng nhau, trộn đều, hoà với mỡ lợn, bôi.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post