Khoai Tây (Solanum tuberosum L.)

Tên nước ngoài: Potato (Anh), pomme de terre (Pháp).
Họ: Cà (Solanaceae).

Mô tả:

Cây thảo, cao 30 - 50 cm. Thân mềm, màu lục, nhẵn hoặc có lông tơ. Các cành ở sát mặt đất phình thành củ hình cầu hoặc hình trứng dẹt. Lá kép lòng chim lẻ, mọc so le, gồm 7 - 9 lá chét không đều, hình bầu dục hoặc hình trứng, lá chét cuối to hơn, mép nguyên.

Cụm hoa mọc ở ngọn thành xim; hoa màu trắng hoặc lam nhạt; đài 5 ràng hình mác dẹp, rời nhau; tràng 5 cánh mỏng hàn liền, có ống ngắn; nhị 5, bao phấn tạo thành ống bao quanh nhụy, nút ở đỉnh; bầu nhẵn.

Quả mọng, hình cầu.

Mùa hoa: tháng 3-4.

Bộ phận dùng:

Củ và thân lá.

Thành phẩn hóa học:

Củ khoai tây chứa các nhóm chất sau:

  • Carbohydrat: chiếm tỷ lệ 65 - 80% trọng lượng khô của củ chủ yếu là nhóm amylose và amylopectin, ngoài ra còn chứa các dường khác như sucrose, glucose fructose, stachyose, planteose, galactose, melibiose, rafinose..., các polysacharid như hemicelulose, celulose.

  • Hợp chất chứa nitơ: chiếm khoảng 1, 2 - 2%, trong dó gần một nửa là protein và khoảng 35% là các hợp chất chứa nitơ không phải là protein. Các acid amin chủ yếu trong củ khoai tây là arginin, histidin, lysin tryptophan, phenylalanin, cystein, methionin threonin và valin.

  • Các enzim: như phosphorylase, beta - amylase, phenolase, transaminase, glucosidase.

  • Các vitamin: vitamin A, thiamin, riboflavin, acid nicotinic, cholin, acid folic và vitamin c.

  • Các acid hữu cơ: như acid linolic, palmitic, linolenic, oleic, stearic, myristic.

  • Các phytosterol: như cholesterol, stigmasterol và beta - sitosterol.

  • Các anthocyanin và flavonol như rutin, quercetin - 3 - glucosyl - rhamnosyl glycosid, kaempferol - 3 - diglucosid - 7 - rhamnosid, kaempferol - 3 - triglucosid - 7 - rhamnosid, myricerin và quercitrin.

  • 8 hợp chất carotenoid là beta - caroten, beta - caroten - 5, 6 1 monoepoxid, cryptoxanthin - 5, 6 - diepoxid, lutein, cis - violaxanthin, cis - antheraxanthin - 5, 6 - monoepoxid, và cis - neoxanthin.

  • Glycoalcaloid như alpha - solanin, khi thủy phân cho solanidin, galactose, glucose và rhamnose; beta - solanin, khi thủy phân cho solanidin, galactose và glucose; alpha - chaconin khi thủy phân thu được solanidin, glucose và 2 phân tử rhamnose; beta - chaconin khi thủy phân cho solanidin, glucose và rhamnose.

Ngoài ra, củ khoai tây còn có một lượng nhỏ solanidin và yamogenin ở dạng tự do.

Thân và lá khoai tây chúa khoảng 3% tanin so với lá khô. Solanin cũng dược tìm thấy bong lá, thân và hạt.

Tác dụng dược lý:

  1. Tác dụng làm giảm độ acid dịch vị: Nước ép khoai tây sống có tác dụng làm giảm độ acid của dịch dạ dày.

  2. Tác dụng trên ruột: Nước ép khoai tây sống có tác dụng làm tăng co bóp nhu dộng ruột, kích thích màng nhầy dạ dày, ruột. Ăn nhiều khoai tây luộc chín có tác dụng nhuận tràng nhẹ.

  3. Tác dụng làm dịu, làm mềm da: Bột khoai tây có tác dụng làm dịu, mềm da, thường dùng làm thuốc dấp.

  4. Rutin và các flavonoid trong hoa khoai tây: Có tác dụng hạ huyết áp nhẹ.

  5. Solanin trong quả và mầm củ khoai tây: Có tác dọng chống dị ứng, chống viêm, và chống choáng không kém cortison. Solanin còn có tác dụng giảm đau. Cho chuột cống trắng uống solanin liều 30 mg/kg dường huyết sẽ tăng cao. Tác dụng này bị ức chế khi dùng các chất phong bế alpha và beta - adrenergic.

Tính vị, công năng:

Củ khoai tây có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ khí, kiện tỳ, tiêu viêm.

Công dụng:

Củ khoai tây chữa khó tiêu, đau bụng, viêm loét dạ dày, viêm tuyến nước bọt, say nắng, sốt, bỏng nhẹ, eczema, vết thương. Liều dùng trong ngày 10 - 30g hoặc hơn.

Hoa khoai tây chữa cao huyết áp và là nguyên liệu chiết rutin để chữa bệnh.

Quả và mầm củ khoai tây ít được dùng làm thuốc, vì dễ gây độc. Nhưng trong công nghiệp dược phẩm, chúng được chiết lấy solanin dể làm thuốc giảm đau chữa đau bụng, đau gan, đau nhức khớp xương. Liều dùng 0, 05 - 0, 10g/ngày dưới dạng thuốc viên, bột hoặc thuốc tiêm. Solanin còn chữa dị ứng ở khoa tai mũi họng, chống hen, viêm phế quản, động kinh. Ở Mỹ người ta dùng solanin chữa viêm dạ dày.

Bài thuốc có khoai tây:

  1. Chữa đau và viêm dạ dày:

Củ khoai tây mới thu hoạch, rửa sạch, gọt vỏ, lấy 100g, ép kiệt lấy nước, uống trước bữa ăn nửa giờ. Ngày 2-3 lần.

  1. Thuốc nhuận tràng:

Khoai tây luộc chín, ăn 100g hoặc hơn. Có thể dùng phối hợp với bài thuốc chữa đau và viêm dạ dày ở trên.

  1. Chữa đau bụng:

Vỏ củ khoai tây sống 10-20g, sắc uống.

  1. Chữa say nắng, nhức đầu, sốt:

Củ khoai tây, gọt vỏ, giã đắp hoặc thái lát mỏng, đặt lên trán hoặc thái dương.

  1. Chữa bỏng nhẹ, vết thương, eczema:

Củ khoai tây rửa sạch, dể cả vỏ hoặc gọt vỏ, thái lát mỏng, dán lên vết thương hoặc giã nát, đắp bỏng. Riêng bỏng nhẹ, có thể bốc lấy vỏ từ củ khoai tây dã luộc, giã nát rồi đắp.

  1. Chữa viêm tuyên nước bọt:

Củ khoai tây mài với giấm bôi vào chỗ sưng đau. Ghi chú. Khoai tây sau thu hoạch nên rải lên giàn để chổ râm mát trong nhà. Nếu để ở ngoài trời, củ sẽ biến chất, ngoài vỏ xanh, trong ruột thâm, có độc. Người ăn loại khoai đã biến chất, hoặc khoai đã mọc mầm dễ bị ngộ độc (vì trong mầm chứa nhiều chất solanin độc), sinh đau bụng, nôn mửa, đái ra máu, suy giảm hô hấp và thần kinh.

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam

Next Post Previous Post