Rau càng cua (Piper Pellucidum L.)
Tên khác: Cây tiêu màng
Tên nước ngoài: Card craw, peper leaves (Anh)
Họ: Hồ tiêu (Piperaceae)
Mô tả:
Cây thảo nhỏ mọng nước, sống hằng năm, cao 20-40cm, bén rễ ở những mấu. Thân giòn dễ gãy, mọc đứng sau mọc bò, nhẵn, phân nhánh nhiều. Lá mọc so le, hình tim, phiến dạng màng, dài 1,5-2cm, gốc hình tim, đầu nhọn, mặt trên bóng láng, gân lá 5, cuống là dài khoảng 1,5cm.
Cụm hoa mọc đối diện với lá thàng bông mảnh dài 5-8cm, lá bắc có phiến tròn và cuống rất ngắn, hoa lưỡng tính, bao hoa gần hình tròn, nhị 2 có chi nhị rất ngắn, bao phấn tròn, bầu có vòi nhụy mọc chính giữa đỉnh, hơi có lông.
Quả mọng hình cầu, đường kính 0,5-1mm có nhiều đường gờ nhỏ chạy dọc, đầu có mũi nhọn rất ngắn, khi chin màu nâu đen, chứa một hạt.
Toàn cây có tinh dầu, mùi thơm nhẹ.
Bộ phận dung:
Toàn cây.
Thành phần hóa học:
Rau càng cua chứa các chất apigenin, acacetin, isovitexin, pellucidatin-8-neohesperidosid.
Tác dụng dược lý:
Tác dụng trên các vi sinh vật: đã nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn của cao thô chiết bằng methanol và các phân đoạn chiết bằng ete dầu, dichloromethane, ethyl acetat và butanol toàn cây rau càng cua. Kết quả cho thấy cao và các phân đoạn chiết xuất đều có tác dụng, trong đó phân đoạn chiết xuất bằng butanol có tác dụng mạnh nhất. Cao chiết xuất bằng ethylacetat của toàn cây rau càng cua bỏ rễ có tác dụng kháng khuẩn mạnh trên Bacillus subtilis, pseudomonas aeruginosae và staphylococcus aureus. Mức độ mạnh hơn Penicillin
Tác dụng chống viêm: cao nước toàn cây rau càng cua có tác dụng chống viêm có ý nghĩa, nhưng chỉ loại thu hái vào mùa đông và mùa xuân mới có tác dụng. Cao chiết nước của phần trên mặt đất cây rau càng cua đã được thử tác dụng chống viêm trên mô hình gây phù bằng caragenin và bằng acid arachidonic ở chuột cống trắng. Kết quả cho thấy, cao với liều cho uống 200 và 400mg/kg có tác dụng chống viêm tốt.
Tác dụng giảm đau: cao chiết bằng methanol ở phần trên mặt đất cây rau càng cua với liều từ 70-210mg/kg có tác dụng giảm đau do acid acetic ở chuột nhắt trắng. Cao chiết nước phần trên mặt đất của cây rau càng cua đã được nghiên cứu tác dụng giảm đau trên mô hình gây đau quặn bụng bằng acid acetic và thử nghiệm tấm nóng trên chuột nhắt trắng. Kết quả cho thấy, trên mô hình dung acid acetic, cao có tác dụng mạnh nhất ở liều 400mg/kg, trong khi dùng mô hình tấm nóng, liều tốt nhất là 100mg/kg.
Tác dụng trên tế bào ung thư: nghiên cứu tác dụng của một số chất chiết từ toàn cây rau càng cua trên 3 dòng tế bào ung thư của người là HL-60 (bệnh đa bạch cầu tiền tủy bào cấp), MCF-7 (dòng tế bào ung thư vú), Hela (dòng tế bào ung thư cổ tử cung). Kết quả cho thấy chất secolignan-1 có tác dụng ức chế sự phát triển của cả 3 dòng tế bào ung thư với IC50 từ 1,4 đến 9,1 micromol, chất peperomin E có IC50 từ 1,8 đến 11,1 micromol, chất secolignan-2 có tác dụng ức chế yếu trên dòng tế bào HL-60 với IC50 là 10,8 micromol.
Tác dụng gây đột biến và chống đột biến nhiễm sắc thể: cao chiết nước và cao chiết ethanol của thân và lá rau càng cua đã được nghiên cứu tác dụng gây đột biến trên chủng vi khuẩn salmonella tylhimurium TA98 và TA100 theo Phương pháp Ames. Kết quả cho thấy cao với lượng 10mg trong một hộp petri không gây ra đột biến nhiễm sắc thể.
Độc tính: chất apiol có trong cây rau càng cua độc với nhu mô thận và nhu mô gan. Tác dụng lợi niệu mạnh của chất này có thể do nó gây độc trên nhu mô thận. Chất apiol liều cao gây ra xuất huyết tử cung, dùng nhiều gây sảy thai hoặc nhiểm độc thai nhi. Cao chiết nước của toàn cây bỏ rễ rau càng cuathử trên chuột nhắt trắng, dùng đường uống có LD50 là 5000mg/kg, chứng tỏ cây có độc tính thấp.
Tính vị công năng:
Cây rau càng cua vị ngọt, chua, hơi chát, tính mát, có công năng thanh nhiệt giải độc, tán ứ chỉ thống.
Công dụng:
Nông dân thường lấy lá rau càng cua rửa sạch, giã nát, đắp lên trán và thái dương để chữa sốt rét, đau đầu, sốt cao. Để chữa đau bụng, toàn cây bỏ rễ, lấy một nắm (50g) rửa sạch, giã nát vắt lấy nước uống. Nhân dân dùng toàn cây bỏ rễ, rửa sạch làm rau ăn sống hoặc nấu canh ăn để giải nhiệt.
Ở Indonesia (vùng Java), người ta nghiền nát lá ra, đắp vào thái dương và trán trị nhức đầu, sốt rét; dịch lá uống để trị đau bụng, hoặc chóng mặt, cây tươi được ăn như rau xanh.
Ở Philippin, toàn cây giã nát làm thành miếng đắp, hơ nóng, đắp lên chữa áp xe và nhọt chưa vỡ mũ, nước sắc hoặc hãm, uống chống gout, đau thấp khớp, bệnh thận.
Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng giã đắp trị đòn ngã, bỏng lửa, bỏng nước, ung sang thủng độc.
Ở Malaysia, toàn cây sắc uống chữa thấp khớp, mệt mỏi.
Ở Trung Nam Phi, rau càng cua được dùng như ở Philippin, ngoài ra còn sắc uống để kích thích tiêu hóa, ăn ngon.
Ở Nigeria, rau càng cua được dùng trị bệnh sởi.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam